layout 3 Flipbook PDF

layout 3

22 downloads 105 Views 11MB Size

Story Transcript

MỤC LỤC quyển 1 4 5 10 15 20 25 30 THỜI KỲ CỔ ĐẠI BẮC THUỘC & ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ NHÀ LÝ 34 35 40 45 50 55 60 65 70 75 80 85 90 95 100 105 110 114 115 120 125 130 135 140 Huyền sử con Rồng cháu Tiên Vua Hùng dựng nước Văn Lang Thánh Gióng nhổ tre đánh giặc An Dương Vương xây thành Cổ Loa Truyền thuyết Trọng Thủy - Mỵ Châu Nhà Triệu hùng cứ Lĩnh Nam Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa Bà Triệu đánh đuổi Đông Ngô Lý Nam Đế dựng nước Vạn Xuân Triệu Việt Vương đánh đuổi nhà Lương Khởi nghĩa Mai Thúc Loan - Phùng Hưng Cao Biền xây thành Đại La Khúc Thừa Dụ - Khúc Hạo: họ Khúc dựng nền tự chủ Dương Đình Nghệ tái dựng non sông Ngô Quyền khởi binh diệt giặc Khúc tráng ca trên sông Bạch Đằng Đinh Tiên Hoàng dẹp loan 12 sứ quân Dương Thái hậu: long cổn truyền ngôi Lê Hoàn đánh Tống bình Chiêm Lê Long Đĩnh: nhà Tiền Lê suy tàn Sư Vạn Hạnh: người thầy của 2 triều Lý Thái Tổ: đường tới Thăng Long Lý Thái Tông mở đầu thời thịnh trị Chiến dịch Ung Châu Lý Thường Kiệt tử chiến Như Nguyệt Đại Việt huy hoàng dưới triều Lý Lý Chiêu Hoàng trút áo nhường ngôi


THỜI KỲ CỔ ĐẠI Thời kì dựng nước, gắn liền với các quốc gia Văn Lang, Âu Lạc. Đây là thời kì định hình bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt.


Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra dân tộc Việt Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân vốn loài rồng, cưới Âu Cơ thuộc loài tiên, sinh ra trăm trứng, nở thành trăm người con, chính là thủy tổ của dân tộc Việt Nam. Theo truyền thuyết, đời Hùng Vương thứ 6, giặc phương Bắc xâm lược. Thánh Gióng đã mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm gươm sắt xông pha trận mạc, đánh tan giặc dữ, bảo vệ đất nước. An Dương Vương cho xây thành Cổ Loa, tòa thành cổ nhất và có kiến trúc độc đáo bậc nhất trong lịch sử Việt Nam. Tương truyền, thần Kim Quy đã giúp vua xây thành. Hùng Vương thứ nhất lên ngôi, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Văn Lang là nhà nước đầu tiên của người Việt cổ. Con Hùng Vương thứ 6 là Lang Liêu đã phát minh ra món bánh chưng bánh dày để dâng cúng tổ tiên và trời đất. Phong tục làm bánh chưng bánh dày dâng cúng ngày Tết được lưu truyền đến tận ngày nay. Thục Phán thống nhất 2 nước Âu Việt và Lạc Việt, thành lập nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa, xưng là An Dương Vương. Sau nhiều năm kháng chiến, nước Âu Lạc bị Triệu Đà thôn tính. Sự kiện gắn với truyền thuyết Trong Thủy - Mỵ Châu. // // // TK VII TCN 208 TCN 214 TCN // Nước Văn Lang thành lập Truyền thuyết bánh chưng bánh dày Nước Âu Lạc thành lập 179 TCN Âu Lạc bị thôn tính Bắc thuộc lần 1 Thánh Gióng đánh tan giặc phương Bắc Nhà Tần phát binh xâm lược vùng đất Lĩnh Nam An Dương Vương xây thành Cổ Loa Nhà Tần thống nhất Trung Hoa, phát 50 vạn quân sang xâm lược Lĩnh Nam. Nhiều bộ tộc bị đánh bại, chỉ còn nước Âu Lạc kiên cường chống giặc đến cùng.


Thứ bảo vệ được đất nước trước họa ngoại xâm không phải là gươm sắt, giáp sắt, nón sắt, mà chính là những người dân bình thường nhưng có trái tim yêu nước rực cháy. Trong sự hình thành và phát triển của nước Văn Lang cổ đại, không thể thiếu những biểu tượng anh hùng đóng vai trò là tấm gương sáng để con cháu noi theo. Truyền thuyết Thánh Gióng là một trong số những câu chuyện vĩ đại đó. Đời Hùng Vương thứ 6, phương Bắc dấy binh xâm lược nước ta. Việc đương nguy cấp, vua Hùng triệu tập chư tướng hỏi kế sách chống giặc. Chợt trời nổi mưa to gió lớn, có một vị thần râu tóc bạc trắng xuất hiện, căn dặn vua mau tìm bậc kỳ tài trong nước để diệt giặc. Vua nghe lời thần minh, liền cử sứ giả đi khắp nơi cầu hiền tài. Sứ giả đi rồi, mẹ có vẻ sợ, Gióng liền trấn an: "Việc đánh giặc thì mẹ đừng lo. Nhưng mẹ phải cho con ăn thật nhiều mới được!" Mẹ vội thổi cơm cho con ăn, nhưng nấu lên được nồi nào thì Gióng liền ngốn hết ngay nồi ấy. Cậu lớn nhanh như thổi, bỗng chốc biến thành một chàng thanh niên khỏe mạnh. Hết gạo, bà mẹ đi kêu gọi xóm làng giúp đỡ. Mọi người nô nức đem gạo khoai, trâu rượu, hoa quả, bánh trái đến chất đầy một sân. Nhưng bấy nhiêu vẫn không thể khiến Gióng no bụng. Vừa lúc này, quân triều đình đã hì hục khiêng được ngựa, gươm, áo giáp và nón sắt tới. Gióng bước ra khỏi nhà vươn vai một cái, người bỗng cao to sừng sững, chân dài hơn trượng, hét lên một tiếng như tiếng sấm: ""Ta là tướng nhà Trời!"" Liền đó, Gióng phi ngựa vung gươm tiến lên trước, quan quân nối gót theo sau, dũng mãnh đánh nhau với giặc ở chân núi Vũ Ninh. Ngựa thét ra lửa thiêu cháy từng dãy đồn trại, gươm bén chém tung hết rừng rậm xung quanh. Đánh nhau một hồi bất ngờ gươm của Gióng gãy lìa. Giặc thừa cơ đổ xô lại bao vây cậu, lớp lớp như sóng thần. Ở hương Phù Đổng, bộ Vũ Ninh, có nhà giàu nọ, sinh được một người con trai đặt tên là Gióng, hơn ba tuổi nhưng không biết nói, nằm ngửa không ngồi dậy được. Gặp lúc sứ giả của vua Hùng đi ngang, đứa trẻ đột nhiên cất tiếng rằng: "Mẹ ơi gọi sứ giả tới đây". Người mẹ rất lấy làm kinh ngạc, liền cùng dân làng gọi sứ giả tới. Sứ giả vào nhà, thấy cậu nhỏ tuổi có ý chê trách, Gióng khảng khái nói: "Xin cho một thanh gươm, một áo giáp sắt và một con ngựa sắt, vua không phải lo gì. PHƯƠNG BẮC XÂM LĂNG LỚN NHANH NHƯ THỔI TA LÀ TƯỚNG NHÀ TRỜI! Giữa lúc nguy ngập, Gióng nhanh trí nhổ cả bụi tre gần đó làm vũ khí, quật túi bụi vào đám quân xung quanh. Chẳng mấy chốc, quân giặc đã tan tác khắp nơi, số đầu hàng, số tháo chạy về phương Bắc. Không đầy một buổi, Gióng đã trừ xong nạn nước. Lúc bấy giờ, ngựa Gióng đã tiến đến chân núi Sóc Sơn. Gióng bèn cởi giáp bỏ nón lại, rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời. Sau khi thắng trận, để nhớ ơn người anh hùng, vua Hùng sai lập đền thờ Gióng ở làng quê, phong làm Phù Đổng Thiên Vương. NHỔ TRE ĐÁNH GIẶC ĐỨA TRẺ KỲ LẠ THÁNH GIÓNG NHỔ TRE ĐÁNH GIẶC


phương Bắc dấy binh xâm lược nước ta đời vua Hùng thứ 6 ở làng Phù Đổng có cậu bé tên Gióng đã lên 3 mà chưa biết nói, cười vua sai sứ giả đi tìm người tài đánh giặc Gióng chợt cất tiếng khi sứ giả đi ngang qua Gióng xin vua một thanh gươm, sắt một áo giáp sắt và một con ngựa sắt để đi đánh giặc vua cho rèn các món đồ như Gióng yêu cầu Gióng mặc giáp lao vào trại giặc ngựa phun ra lửa Gióng đi trước quan quân nối tiếp theo sau quân giặc bao vây tứ phía gươm gãy lấy bụi tre làm vũ khí cả người và ngựa bay lên trời được phong là Phù Đổng Thiên Vương đánh tan quân thù cả làng góp gạo thổi cơm, Gióng ăn hết núi cơm lớn nhanh như thổi quân dân đồng lòng Sơ đồ truyền thuyết Thánh Gióng không chịu làm nô lệ THÁNH GIÓNG Sáu đời Hùng vận vừa suy, Vũ Ninh có giặc mới đi cầu tài. Làng Phù Đổng có một người, Sinh ra chẳng nói, chẳng cười trơ trơ. Những ngờ oan trái bao giờ, Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân. Nghe vua cầu tướng ra quân, Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích ngang. Lời thưa mẹ, dạ cần vương, Lấy trung làm hiếu một đường phân minh. Sứ về tâu trước thiên đình, Gươm vàng, ngựa sắt đề binh tiến vào. Trận mây theo ngọn cờ đào, Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tan. Áo bào cởi lại Linh San, Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên. Đền thiêng còn dấu cố viên, Sử xưa còn đó lời nguyền còn đây. - Trích Đại Nam Quốc sử Diễn ca -


Thời kì đất nước bị các triều đại phương Bắc đô hộ. Chính sách cai trị của phong kiến phương Bắc khiến đời sống nhân dân cơ cực. Trải qua nhiều thế kỉ đổ máu và nước mắt, đến đầu thế X, một bước ngoặt quan trọng đã xảy ra, người Việt đã giành được quyền tự chủ, và sau đó là độc lập dân tộc. 179 TCN - 937 BẮC THUỘC &


Năm 248, Bà Triệu phất cờ khởi nghĩa chống lại sự tàn ác của Đông Ngô. Uy danh của bà khiến quân giặc kinh hồn bạt vía. Vua Ngô liền cử Lục Dận sang đàn áp. Bà Triệu thua trận tuẫn tiết ở núi Tùng. Năm 602, nhà Tùy cử quân sang xâm lược Vạn Xuân, Hậu Lý Nam Đế sợ hãi đầu hàng, bị giải về phương Bắc. Nhà Tiền Lý mất, bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc lần 3. Năm 192, Khu Liên lãnh đạo nhân dân Tượng Lâm nổi dậy giết huyện lệnh, chống lại sự đô hộ của nhà Hán. Khu Liên lên ngôi vua, đặt tên nước là Lâm Ấp, chính là tiền thân của vương quốc Chiêm Thành. Năm 542, Lý Bí lãnh đạo nhân dân Giao Châu phất cờ khởi nghĩa, đánh tan bộ máy đô hộ của nhà Lương, giải phóng toàn bộ Giao Châu và Hợp Phố. Năm 548, Lý Nam Đế ốm mất. Triệu Quang Phục tiếp nối cơ nghiệp, xưng là Triệu Việt Vương, thống lĩnh quân dân tiếp tục đánh giặc Lương bảo vệ đất nước. Năm 550, Triệu Việt Vương đánh bại giặc, nước ta lại yên ổn. Năm 722, Mai Thúc Loan phất cờ khởi nghĩa, lật đổ ách đô hộ nhà Đường. Ông lên ngôi, xưng hiệu Mai Hắc Đế, dựng kinh đô Vạn An. Tiếc thay sự nghiệp chỉ kéo dài được một năm thì bị nhà Đường đàn áp. Năm 905, Khúc Thừa Dụ tự xưng Tiết độ sứ, mở đầu thời kỳ tự chủ. Năm 907, Khúc Hạo nối ngôi cha, tiếp tục thi hành nhiều chính sách trong việc kiến thiết nền móng một nước Việt độc lập. 192 542 548 40 - 43 248 544 602 Khởi nghĩa Khu Liên nước Lâm Ấp ra đời Khởi nghĩa Lý Bí bùng nổ Triệu Việt Vương lên ngôi Năm 938, Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Chiến thắng này đã chấm dứt hoàn toàn thời kỳ Bắc thuộc, mở ra kỷ nguyên độc lập lâu dài cho nước Việt. Chiến thắng Bạch Đằng mở ra kỷ nguyên độc lập 713 - 722 Khởi nghĩa Mai Thúc Loan Khúc Thừa Dụ xưng Tiết độ sứ Khởi nghĩa Hai Bà Trưng Khởi nghĩa Bà Triệu Nhà Tiền Lý thành lập Nhà Tiền Lý sụp đổ Bắc thuộc lần 3 Năm 791, Phùng Hưng phất cờ khởi nghĩa ở Đường Lâm, chiếm được đô hộ phủ Tống Bình trong một thời gian ngắn. Ông chẳng may mất sớm, cuộc giành độc lập phải dang dở. 791 - 803 931 905 938 Khởi nghĩa Phùng Hưng Năm 931, Dương Đình Nghệ khởi binh ở Ái Châu, nhanh chóng đánh bại quân Nam Hán xâm lược. Ông tự xưng là Tiết độ sứ, giành lại nền tự chủ cho nước ta. Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán Năm 40, Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh đuổi thái thú nhà Hán, giải phóng 65 thành trì ở Lĩnh Nam. Hai Bà xưng vương, dựng lại nền độc lập, đóng đô ở Mê Linh. Năm 43, nhà Hán đem quân sang đàn áp, Hai Bà Trưng thua trận tuẫn tiết ở sông Hát, nước ta rơi vào thời kỳ Bắc thuộc là 2. Năm 544, Lý Bí lên ngôi, tự xưng Nam Việt Đế, đặt niên hiệu Thiên Đức, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân. Đó là lần đầu tiên nước ta xưng đế kể từ thời Bắc thuộc, minh chứng cho khát vọng độc lập của người Việt.


Thắng thua là lẽ thường tình ở đời. Tuy Hai Bà Trưng khởi nghĩa thất bại, nhưng đã kịp lưu truyền tấm gương đấu tranh bất khuất và lòng yêu nước sáng ngời cho con cháu ngàn đời sau học hỏi. Tô Định được triều đình Đông Hán cử sang cai trị nước ta vào năm 34. Sử sách chép, Tô Định là viên quan tham lam, tàn bạo, chuyên vơ vét của cải khiến người dân bản xứ bất bình. Nhằm để trấn áp sự phản kháng, Tô Định đã ra lệnh chém đầu Thi Sách, một thủ lĩnh người Việt ở Chu Diên, chồng của Trưng Trắc. Hành động này đã gây nên phẫn nộ của người Việt, mà đỉnh điểm là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đánh đuổi người Hán. Thế kỷ I sau công nguyên, dưới sự cai trị của Hán Quang Vũ Đế, Trung Hoa vô cùng hùng mạnh, không ngừng đem quân chinh phạt tứ phương, các xứ Hung Nô và Tây Vực đều quy phục. Về phần nước ta, sau gần 200 năm dưới ách cai trị của nhà Hán, nền mống xã hội cổ dần bị đảo lộn. Nhà Hán xác lập bộ máy cai trị chặt chẽ hơn so với nhà Triệu, thiết lập đơn vị cai trị cấp châu và quận. Tại các huyện, chế độ Lạc tướng cha truyền con nối của người Việt vẫn được phép duy trì. THÁI THÚ TÀN BẠO Sau cái chết của Thi Sách, lòng căm thù của người Việt bùng nổ. Hai Bà Trưng mang quân bản bộ về giữ Hát Giang (nay là xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Hà Nội). Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 2 năm 40, Hai Bà Trưng chính thức phát động khởi nghĩa chống lại nhà Đông Hán. Quân dân cả nước nghe tin đều đồng lòng hưởng ứng. Rất nhanh chóng, quân của Hai Bà Trưng đã bao vây trị sở Luy Lâu. Tô Định vì quá hoảng sợ liền cắt tóc, cạo râu bỏ trốn về nước. Tin chiến thắng của Hai Bà Trưng lan xa ngàn dặm. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai Bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương, hay còn gọi là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh. Chính quyền của Hai Bà Trưng tuy còn sơ khai nhưng cũng đã là một nhà nước độc lập, tự chủ. Hai Bà ban lệnh miễn thuế cho dân chúng trong 2 năm. GIẢI PHÓNG LĨNH NAM HÁT GIANG RỰC LỬA Việc Lĩnh Nam tự tuyên bố độc lập khiến nhà Hán tức giận vô cùng. Năm 41, Hán Quang Vũ Đế sai các quận Trường Sa, Hợp Phố chuẩn bị xe thuyền, sửa cầu đường và trữ lương đi đánh Giao Chỉ. Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Lưu Long làm phó tướng dẫn 20.000 sang đánh Giao Chỉ. Nghe tin dữ, Hai Bà Trưng không chút nao núng, lập tức xuất quân đón đánh giặc ở Lãng Bạc. Tại đây, hai bên đã giao chiến dữ dội. Quân Hán không hợp thủy thổ phương Nam, bị chết rất nhiều. NHÀ HÁN DẤY QUÂN PHỤC THÙ Giao chiến lâu ngày, quân Hai Bà Trưng thiếu trang bị và kinh nghiệm, dần lép vế trước đạo quân thiện chiến của Mã Viện. Giặc thừa cơ đánh tràn, Hai Bà Trưng thua to phải rút lui về Mê Linh, sau đó chạy sang Cấm Khê. Tại Cấm Khê, quân của Hai Bà tiếp tục bị đánh bại. Quân Hán chém hơn nghìn người, bắt hàng hơn 2 vạn quân khởi nghĩa. Tương truyền, Hai Bà chạy đến sông Hát thì nhảy xuống sông tuẫn tiết. TUẪN TIẾT Ở HÁT GIANG HAI BÀ TRƯNG PHẤT CỜ KHỞI NGHĨA


Tô Định cai trị tàn bạo Mã Viên đem quân sang phục phù nhà Hán không từ bỏ tham vọng chém đầu Thi Sách để đàn áp người dân Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa dân chúng nhất loạt hưởng ứng khởi nghĩa thắng lợi Trưng Trắc xưng vua đóng đô ở Mê Linh lập tức xuất quân đón đánh thiếu trang bị và kinh nghiệm đạo quân thiện chiến chiếm được 65 thành 20 000 quân Tô Định sợ hãi cắt tóc, cạo râu bỏ trốn Sơ đồ khởi nghĩa Hai Bà Trưng kháng chiến thất bại Hai Bà Trưng tuẫn tiết ở sông Hát HAI BÀ TRƯNG Theo sử sách, Hai Bà Trưng vốn họ Lạc, là dòng dõi Lạc tướng ở Mê Linh. Trưng Trắc kết hôn với con trai Lạc tướng ở Chu Diên tên là Thi Sách. Hai nhà cùng chung chí hướng chống lại sự cai trị tàn bạo của Tô Định. Bà Trưng quê ở Châu Phong Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên Chị em nặng một lời nguyền Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân Ngàn Tây nổi áng phong trần Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên Hồng quần nhẹ bước chinh yên Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta - Trích Đại Nam Quốc sử Diễn ca - Trưng Trắc: lãnh đạo khởi nghĩa (chị) Trưng Nhị: lãnh đạo khỏi nghĩa (em) Thi Sách: chồng Trưng Trắc Tô Định: thái thú Giao Chỉ Mã Viện: tướng nhà Hán


Đường Lâm có anh hùng Phùng Hưng đả hổ, đem lại bình yên cho làng xóm. Đô hộ phủ có Cao Chính Bình tham lam tàn ác, khiến lòng dân căm phẫn vô cùng. Tiếp nối ngọn lửa anh hùng của Mai Hắc Đế, năm 791, Phùng Hưng phất cờ khởi nghĩa, thống lĩnh hùng binh bao vây thành Tống Bình. Đô hộ Cao Chính Bình đóng cửa cố thủ. Nhận thấy lực lượng chưa thật đủ mạnh để đánh bại quân địch, Phùng Hưng đã cùng các tướng tỏa đi xung quanh chiêu mộ thêm binh lính và sắm sửa vũ khí, còn việc vây thành được giao cho ba người cháu gái họ Phùng. Quan Đô hộ Cao Chính Bình đem binh ra đánh, thua liền mấy trận, ưu phẫn phát bệnh vàng da rồi chết. Phùng Hưng khải hoàn tiến vào thành Tống Binh, dùng nhân nghĩa trị dân. Tuy nhiên, ông lại mất sớm, sự nghiệp anh hùng không người truyền nối. Và phải hơn 100 năm sau nữa, ngọn lửa tiếp theo mới bùng cháy, dẫn dắt dân Việt thoát khỏi đêm trường Bắc thuộc. PHÙNG HƯNG ĐẢ HỔ DIỆT GIẶC Nhà Tiền Lý diệt vong, nước ta chìm vào đêm trường Bắc thuộc một lần nữa. Nhà Đường bóc lột dân ta vô cùng nặng nề, hằng năm các châu quận phải cống nạp nhiều sản vật quý cộng với sưu thuế cao ngất ngưởng. Chính sử nhà Đường cũng thừa nhận quan lại An Nam vơ vét dân chúng rất tàn tệ: Cao Chính Bình thu thuế nặng; Lý Trác tham lam ăn hối lộ, bắt người dân miền núi phải đổi 1 con trâu bò chỉ để lấy được 1 đấu muối; Lý Tượng Cổ tham tàng, bất kể luật pháp... Hơn 300 năm dài đằng đẵng đó, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra để chống lại ách đô hộ phương Bắc. Tiêu biểu nhất là hai cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan và Phùng Hưng. Không thể chịu nổi ách cai trị tàn bạo của nhà Đường, năm 722, Mai Thúc Loan khởi nghĩa ở Rú Đụn, nhanh chóng nhận được sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân. Các châu huyện xung quanh đều quy phục, các nước láng giềng như Lâm Ấp, Chân Lạp cũng cho người đến kết giao. Ông lên ngôi vua, xưng là Mai Hắc Đế, xây lập kinh đô Vạn An, binh mã không ngừng lớn mạnh. Sau đó, Mai Hắc Đế dẫn quân vây đánh đô hộ phủ Tống Bình (nay thuộc Hà Nội). Đô hộ nhà Đường là Quang Sở Khách cùng đám thuộc hạ không chống cự nổi, phải bỏ thành chạy về phương Bắc. Lực lượng của Mai Hắc Đế lúc đó đã lên tới chục vạn người. MAI HẮC ĐẾ NỔI LỬA CHỐNG ĐƯỜNG Mùa thu năm 722, Nhà Đường tổng huy động hơn 10 vạn quân, cử tướng Dương Tư Húc và Quang Sở Khách sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Quân Đường tiến theo đường cũ của Cao Biền, nhanh chóng bao vây, tấn NHÀ ĐƯỜNG PHỤC THÙ TIẾP NỐI NGỌN LỬA ANH HÙNG Kẻ tham lam, tàn ác sớm muộn gì cũng bị diệt trừ. Anh hùng tuy thất thế nhưng vẫn kịp để tiếng thơm cho muôn đời. KHỞI NGHĨA MAI THÚC LOAN PHÙNG HƯNG công thành Tống Bình. Mai Hắc Đế và quân dân ta kháng cự dữ dội, nhiều trận đánh ác liệt xảy ra suốt từ sông Hồng đến lưu vực sông Lam. Tuy nhiên, do giặc quá đông và mạnh, Mai Hắc Đế thua trận, thành Vạn An thất thủ, nghĩa quân tan vỡ. Ông dẫn tàn quân rút vào rừng sâu kháng giặc một thời gian nữa rồi bệnh mất. Tương truyền, con trai thứ ba của ông là Mai Thúc Huy lên ngôi vua tức Mai Thiếu Đế, tiếp tục chống trả các cuộc tấn công của nhà Đường tới năm 723.


MAI THÚC LOAN PHÙNG HƯNG Phùng Hưng (746-791) thế tập Biên Khố Di Tù Trưởng châu Đường Lâm (nay thuộc Hà Nội), hiệu là Quan Lang. Phùng Hưng vốn nhà hào phú, sức lực dũng mãnh, đánh được hổ, vật nổi trâu. Người em Phùng Hải cũng có sức lực kỳ dị, nâng đá vác thuyền đi hàng chục dặm không biết mệt. Mai Thúc Loan (670-723) người Hoan Châu (nay thuộc Nghệ An), mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Sinh thời, Mai Thúc Loan có sức khỏe vô địch, giỏi đô vật, thông minh đĩnh ngộ và có chí lớn. Ông mở lò vật, lập phường săn, chiêu mộ trai tráng trong vùng cùng mưu việc lớn. Vợ ông giỏi việc nông tang, nhờ đó "gia sản ngày một nhiều, môn hạ ngày một đông".


937 - 1009 NGÔ - ĐINH TIỀN LÊ Giai đoạn đầu của thời kì phong kiến độc lập, chính quyền còn sơ khai. Vận mệnh dân tộc thường xuyên lâm nguy bởi các thế lực cát cứ và tham vọng lập lại ách thống trị của phong kiến phương Bắc, song các chính quyền vẫn hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước, tạo cơ sở cho sự phát triển của dân tộc trong những giai đoạn sau.


Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục. Mở ra kỷ nguyên độc lập lâu dài cho nước Việt. Năm 980, trước nguy cơ nhà Tống xâm lược, trong khi vua Đinh Toàn nhỏ tuổi, triều đình tôn lập Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, lập ra nhà Tiền Lê. Năm 965, sau một thời gian dài tranh chấp ngôi vua, chính quyền nhà Ngô tan rã. Không có người cai trị, các hào trưởng địa phương nổi dậy cát cứ, hình thành cục diện loạn 12 sứ quân. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, đắp thành đào hào, xây cung điện, đặt triều nghi. Quần thần dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế. Năm 981, nhà Tống cử Hầu Nhân Bảo dẫn quân sang xâm chiếm Đại Cồ Việt. Vua Lê Hoàn tự mình làm tướng, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông Chi Lăng. Sau nhiều trận giao tranh, quân ta chém được Hầu Nhân Bảo, phá tan quân Tống. Năm 1005, vua Lê Hoàn mất, các vương tranh ngôi suốt 8 tháng, trong nước không có chủ. Lê Long Việt tại vị được 3 ngày thì bị Lê Long Đĩnh giết cướp ngôi, mở đầu thời suy tàn của nhà Tiền Lê. 965 968 939 967 980 Chính quyền nhà Ngô tan rã, loạn 12 sứ quân Nhà Đinh thành lập quốc hiệu là Đại Cồ Việt 981 Đánh tan quân Tống xâm lược Lễ Long Đĩnh cướp ngôi Ngô Quyền xưng vương đóng đô ở Cổ Loa Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân Lê Hoàn lên ngôi vua, nhà Tiền Lê thành lập Năm 987, vua Lê Hoàn tổ chức lễ cày tịch điền ở núi Đọi để khuyến khích dân chúng trồng trọt sản xuất. Đó là lễ tịch điền đầu tiên ở Việt Nam được sử sách ghi nhận. 987 1009 1005 Lễ cày tịch điền đầu tiên Năm 1009, Lê Long Đĩnh băng hà. Nhận thấy khí số nhà Tiền Lê đã tận, Sư Vạn Hạnh và Đào Cam Mộc cùng triều đình đã phò tá Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Lý. Nhà Tiền Lê sụp đổ Bấy giờ trong nước không có vua, các sứ quân đánh giết nhau khiến bách tính khổ sở vô cùng. Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước.


Tham vọng cá nhân chính là nguồn cơn gây chia rẽ. Từng thân cây nhỏ lẻ sẽ không thể chống nổi bão to. Một nước hai vua, mâu thuẫn cứ âm ỉ cháy, triều chính không ngày nào ổn định. Năm 954 thì Ngô Xương Ngập đột ngột mất. Không được bao lâu, năm 965, Ngô Xương Văn trúng tên chết trong khi đem quân đi dẹp phản loạn. Đất nước không có người đứng đầu, triều đình Cổ Loa tê liệt. Nhân lúc đó, các thế lực địa phương nổi dậy tranh hùng. Theo sử sách, có 12 thế lực lớn chiếm cứ các vùng trong nước, gọi là cục diện 12 sứ quân. Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền xưng vương, khẳng định nền độc lập, tự chủ của dân tộc Việt vừa thoát khỏi đêm trường phụ thuộc. Thời Ngô, chính quyền trung ương còn sơ khai, việc quản lý đất nước về cơ bản vẫn do các làng xã tự quản. Ở địa phương, tầng lớp thổ hào, đại diện cho các dòng họ có thế lực, thường có ảnh hưởng rất lớn, và khi gặp thời cơ thuận tiện thì xu hướng li tâm chính quyền trung ương, ý đồ cát cứ "xưng hùng", "xưng bá" thường xuất hiện. RỒNG MẤT ĐẦU ĐỘC LẬP NHƯNG CHƯA NHẤT THỐNG Năm 944, Ngô Quyền qua đời, em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi, tự xưng Bình vương, khiến triều chính rối loạn, các thổ hào địa phương thi nhau nổi dậy cát cứ. Năm 950, con thứ Ngô Quyền là Ngô Xương Văn đem quân lật đổ Dương Tam Kha, giành lại ngôi báu, sau đó đón anh là Ngô Xương Ngập về cùng trị quốc. NGOẠI THÍCH CƯỚP NGÔI HỔ SÓI TRANH HÙNG Bấy giờ ở động Hoa Lư có Đinh Bộ Lĩnh, con của thứ sử châu Hoan Đinh Công Trứ, từ nhỏ đã nổi tiếng khỏe mạnh và mưu trí hơn người. Nhận thấy cục diện phân tranh kéo dài sẽ khiến đất nước lâm nguy, Bộ Lĩnh đã có một đi táo bạo là từ bỏ địa vị của mình, về đầu quân cho Trần Minh Công ở Bố Hải Khẩu. Minh Công thấy Bộ Lĩnh tướng mạo khôi ngô, khí chất ngút trời, mới nhận làm con nuôi, vô cùng trọng đãi. Nhân đó trao quyền cai quản binh mã, sai đi đánh dẹp các sứ quân khác. Đinh Bộ Lĩnh được dịp trời ban, như rồng gặp nước, ra sức bình định thiên hạ. LÙI MỘT BƯỚC THẤY BIỂN RỘNG Đinh Bộ Lĩnh đã vận dụng nhiều sách lược quân sự và chính trị để nhất thống đất nước. Đối với những hậu duệ nhà Ngô như Ngô Nhật Khánh, Ngô Xương Xí, ông mềm mỏng dụ hàng, thu tính chính danh về tay mình. Lại chiêu hàng được nghĩa quân Phạm Bạch Hổ, phong Hổ là Thân vệ tướng quân, tin dùng hết mực. Đối với những sứ quân đầy tham vọng, kiên quyết kháng cự như Nguyễn Siêu, Đỗ Cảnh Thạc, Kiều Công Hãn, Nguyễn Khoan... Đinh Bộ Lĩnh dùng binh vây đánh, nhổ tận gốc rễ để trừ hậu họa. Chỉ trong vài năm, Đinh Bộ Lĩnh lần lượt đánh thắng 11 sứ quân khác, được người đời xưng tụng là Vạn Thắng Vương. Năm 968, sau khi thiên hạ nhất thống, Đinh Bộ Lĩnh lên ngai vàng, xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, định đô ở Hoa Lư, xây cung điện mới, đặt triều nghi lễ phục. Nhà Đinh thành lập, một lần nữa khẳng định vững chắc tính chính danh và độc lập của nước ta so với phương bắc. DẸP LOẠN 12 SỨ QUÂN LÊN NGÔI HOÀNG ĐẾ ĐINH TIÊN HOÀNG DẸP LOẠN 12 SỨ QUÂN


Đinh Tiên Hoàng họ Đinh, tên húy là Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng, con của Thứ sử châu Hoan Đinh Công Trứ dưới thời Ngô Vương. Ông mồ côi cha từ bé, mẹ họ Đàm đưa vào ở cạnh đền sơn thần trong động. Thời niên thiếu, Bộ Lĩnh thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng. Bọn trẻ tự biết kiến thức không bằng, cùng nhau suy tôn ông làm trưởng. Mỗi khi chơi đùa, bọn chúng thường bắt chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau đi hai bên để rước ông như nghi trượng thiên tử. Lại có sự tích, lúc còn nhỏ tuổi thế yếu, Đinh Bộ Lĩnh bị sứ quân khác đuổi giết. Khi qua Đàm Gia Nương Loan, cầu đột nhiên gãy, ông rơi xuống bùn. Kẻ địch sấn tới địch đâm chết Bộ Lĩnh, bỗng thấy hai con rồng vàng hiện lên hộ vệ ông, thảy đều kinh hãi chạy tan. Từ đấy ai cũng sợ phục Bộ Lĩnh. Đất nước loạn lạc, dân chúng lầm than, nhìn thấu cảnh ấy mà Đinh Bộ Lĩnh đã không ngừng chiêu binh mãi mã, vận dụng mọi kế sách vì giấc mộng thiên hạ đại thống. Năm 968, giấc mộng ấy đã thành hiện thực, ông lên ngôi Hoàng đế, đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt, là vị Hoàng đế đầu tiên của nước ta trong kỷ nguyên độc lập. ĐINH TIÊN HOÀNG Ngô Quyền qua đời đát nước rối lọan triều đình bất hòa Dương Tam Kha cướp ngôi các sứ quân nổi lên Ngô Xương Văn giành lại ngôi xưng vương 2 vương mất triều đình trung ương sụp đổ thống nhất đất nươc lên ngôi hoàng đế tiêu diệt các sứ quân tham vọng chống đồi chiêu hàng những sứ quân yêu nước cùng chí hướng Trần Minh Công trao binh quyền cho Đinh Bộ Lĩnh 12 sứ quân chiếm cứ các vùng Ngô Xương Ngập vì là con trưởng cũng xưng vương Sơ đồ Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân Ngô Quyền: sáng lập nhà Ngô Dương Tam Kha: anh vợ Ngô Quy Ngô Xương Ngập: con trưởng Ngô Quyền Ngô Xương Văn: con thứ Ngô Quyền Trần Minh Công: sứ quân Đinh Bộ Lĩnh: sáng lập nhà Đinh


Trong hơn 200 năm nắm giữ vận mệnh dân tộc, nhà Lý đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt chống ngoại xâm, mở mang lãnh thổ, phát triển kinh tế thịnh vượng. Đế đô dời về Thăng Long, đặt nền mống cho kỷ nguyên "rồng bay lên trời". Đạo Phật rất phát triển ở triều Lý, song song với đó Nho giáo cũng được triều đình chú trọng, Văn Miếu, Quốc Tử Giám dựng xây, khoa thi đầu tiên được mở, giáo dục văn hóa đạt nhiều thành tựu. NHÀ LÝ 1009 - 1225


Khoảng tháng 3 năm 1028, Lý Thái Tổ qua đời. Các đại thần đều đến cung Long Đức để dâng biểu, xin Thái tử Lý Phật Mã lên ngôi nhưng 3 người em của ông là Đông Chinh vương, Dực Thánh vương và Vũ Đức vương không đồng ý nên đem quân của mình phục sẵn ở trong Hoàng thành nhằm cướp ngôi. Trận Như Nguyệt là một trận đánh lớn diễn ra ở một khúc sông Như Nguyệt và là trận đánh cuối cùng của nhà Tống trên đất Đại Việt. Trận chiến diễn ra trong nhiều tháng, kết thúc bằng chiến thắng của quân đội Đại Việt và thiệt hại nhân mạng lớn của quân Tống, đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược Đại Việt của họ. Gần 1 năm sau khi lên ngôi vua, tháng 7 âm lịch năm 1010, Lý Thái Tổ tiến hành dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La (Hà Nội). Ông đã ban hành Chiếu dời đô vào mùa xuân năm 1010. Tháng 10 năm 1009, vua nhà Tiền Lê là Long Đĩnh mất, các con còn nhỏ, quan Điện tiền Chỉ huy sứ là Lý Công Uẩn được sự ủng hộ của Chi nội là Đào Cam Mộc cùng thiền sư Vạn Hạnh đã lên ngôi hoàng đế; các quan trong triều đều nhất trí suy tôn Do tướng nhà Lý là Lý Thường Kiệt phát động nhằm tấn công quân Tống ở 3 châu dọc theo biên giới Tống - Việt năm 1075-1076 Năm 1226, Chiêu Hoàng được Trần Thủ Độ sắp xếp nhường ngôi cho Trần Cảnh (Trần Thái Tông), triều đại nhà Lý cai trị Đại Việt hơn 200 năm đã chính thức kết thúc. Sau khi nhượng vị, Chiêu Hoàng trở thành hoàng hậu của Thái Tông cho đến khi bị phế truất vào năm 1237 vì không sinh được con nối dõi. 1010 1054 1009 1075 1077 1028 Dời đô về Thăng Long Đặt quốc hiệu nước là Đại Việt Chiến dịch đánh Tống 1225 Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi, chấm dứt nhà Lý Nhà Lý thành lập Loạn tam vương Trận Như Nguyệt Trong nước, mặc dù các vị Hoàng đế đều sùng bái Phật giáo nhưng ảnh hưởng của Nho giáo cũng rất cao với việc mở các trường đại học đầu tiên là Văn miếu (1070) và Quốc Tử giám (1076) và tổ chức các khoa thi để chọn người hiền tài. 1070-76 Thành lập Văn Miếu Quốc Tử giám Năm 1009, Lê Long Đĩnh băng hà. Nhận thấy khí số nhà Tiền Lê đã tận, Sư Vạn Hạnh và Đào Cam Mộc cùng triều đình đã phò tá Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Lý.


Nghe tin nhà Tống nuôi mộng cướp phá Đại Việt, Thái úy Lý Thường Kiệt đã táo bạo tâu vua rằng: Sau thời loạn lạc Ngũ Đại Thập Quốc, nhà Tống cơ bản thống nhất Trung Hoa, nhưng phải chật vật đối phó với nước Liêu ở phía Bắc và Tây Hạ ở phía Tây. Hai nước này rất giỏi kỵ binh, thường xuyên tấn công uy hiếp Trung Nguyên. Nhà Tống phải cống nộp nhiều của cải và mất nhiều phần lãnh thổ cho Liêu và Tây Hạ. Để cứu vãn tình hình, nhà Tống đã nuôi dã tâm cướp phá Đại Việt để bù vào ngân khố trống rỗng. Thế là mùa Đông năm 1075, Lý Thường Kiệt huy động 10 vạn quân chia đường bắc tiến. Ông dùng kế "dương Tây kích Đông", cử các tù trưởng Tôn Đản, Vi Thủ An đánh vào các châu, trại sát biên giới, nhanh chóng áp sát Ung Châu. Trong lúc nhà Tống dồn hết sự chú ý về phía Tôn Đản, thì Lý Thường Kiệt bất ngờ chỉ huy một hạm thuyền khổng lồ tấn công Khâm Châu và Liêm Châu. Hai châu trọng yếu của nhà Tống thất thủ mau chóng. Sau đó, Lý Thường Kiệt dẫn binh bao vây Ung Châu. DƯƠNG TÂY KÍCH ĐÔNG Lý Thường Kiệt chủ trương diệt viện trước rồi phá thành sau, liền huy động binh mã lên đường. Hai quân gặp nhau ở ải Côn Lôn, Lý Thường Kiệt vung đại đao hăng hái xông trận, đánh viện binh Tống thua tan tác. Các tướng địch đều tử trận. Sau khi giải quyết mối lo phương Bắc, Lý Thường Kiệt xua quân công thành Ung Châu dữ dội, chiến sự kéo dài hơn 40 ngày. Sau cùng, quân Lý dùng kế đắp núi đất công thành mà hạ được Ung Châu. DIỆT VIỆN PHÁ THÀNH Quân Lý cho phá hủy có hệ thống các kho tàng, kho vũ khí của nhà Tống tại Ung, Khâm, Liêm. Sau đó nhanh chóng rút quân về nước. Kế hoạch "tiên pháp chế nhân" của Lý Thường Kiệt thành công mỹ mãn. Ung Châu thành cao hào sâu, có tướng Tô Giám là nhân vật cứng cỏi. Trước sự bao vây ngặt nghèo của quân Lý, ông mở kho tàng, chia hết tiền vàng cho tướng sĩ để cổ vũ họ chiến đấu. Cùng lúc này, lại xuất hiện một cách viện binh Tống do Trương Thủ Tiết chỉ huy đang từ Quý Châu kéo xuống. Tình thế quân Việt nguy ngập vô cùng. Trái ngược với Trung Hoa, bấy giờ Đại Việt ta trải qua nhiều năm thái bình, kinh tế phát triển cực thịnh, vàng ngọc đầy ắp trong kho. Vua Lý Nhân Tông tuy còn nhỏ tuổi nhưng được nhiều nhân vật tài giỏi phò trợ như Thái hậu Linh Nhân (Ỷ Lan), Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành. KHẢI HOÀN RÚT QUÂN Ý thức nhà Tống sẽ không dễ dàng buông tha cho Đại Việt, ngay khi về nước Lý Thường Kiệt đã bắt tay xây dựng một phòng tuyến khổng lồ trên sông Như Nguyệt, chuẩn bị sẵn sàng cho cơn bão khủng khiếp sắp tới. CHỦ ĐỘNG PHÒNG THỦ THÀNH CAO KHÓ PHÁ TIÊN PHÁT CHẾ NHÂN Đôi khi ta phải lao vào chính tâm bão để tìm đường sống giữa bão dông. CHIẾN DỊCH UNG CHÂU "Chờ người nuôi bụng cướp mình chi bằng đem quân đánh trước, giành thế chủ động."


LÝ NHÂN TÔNG Lý Nhân Tông là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lý, trị vì Đại Việt từ năm 1072 đến năm 1128. Tên húy của vua là Càn Đức, là con trưởng của vua Lý Thánh Tông và thái hậu Linh Nhân Ỷ Lan. Ông là một trong những là vị vua tài giỏi của triều Lý, được miêu tả là "trán dô mặt rồng, tay dài quá gối, sáng suốt thần võ, trí tuệ hiếu nhân, nước lớn sợ, nước nhỏ mến, thần giúp người theo, dân được giàu đông". Trong suốt 56 năm trị vì của ông, nhà Lý đạt đến cực thịnh, bắc đánh Tống, nam bình Chiêm uy danh vang lừng. Các nước xung quanh như Chiêm Thành, Chân Lạp đều thần phục Đại Việt, thường gửi sứ sang cống. Kinh tế Đại Việt được mở mang, giáo dục khoa cử đều có những thành tựu lớn lao. Thời đại của Lý Nhân Tông cùng với 2 đời vua trước được xem là thời thịnh vượng nhất của nhà Lý, với tên gọi "Bách niên Thịnh thế". âm mưu cướp phá Đại Việt để bù vào ngân khố nhà Lý tấn công trước để giành thế chủ động nhà Tống phải cống nạp cho Tây Hạ tình hình đất nước khủng hoảng dồn hết sự chú ý nghi binh đánh vào các trại sát biên giối bao vây Ung Châu Lý Thường Kiệt tấn công Khiêm Châu Liêm Châu Lý Thường Kiệt đem quân chặn đánh phá hủy hệ thống kho tàng vũ khí chiến dịch thành cồng, rút về nước tiếp tục bao vây Ung Châu hạ được thành sau 40 ngày viện binh thua tan tác, các tướng tử trận thất thủ nhanh chóng viện binh ứng cứu Ung Châu Sơ đồ chiến dịch Ung Châu


Đại quân Tống tràn qua biên giới như vũ bão, rất nhanh chóng chiếm cứ bờ bắc sông Như Nguyệt. Tuy nhiên thủy binh Tống vẫn chưa hội quân kịp. Quách Quỳ nóng lòng cho đóng bè lớn và bắc cầu phao vượt sông. Nhưng hai lần đều bị Lý Thường Kiệt đánh tan tác, quân tiên phong nhà Tống thiệt hại nặng nề. Tình thế khó khăn tới nỗi Quách Quỳ phải cố thủ và tuyên bố rằng: "Ai bàn đánh sẽ chém!". QUÂN TỐNG HĂNG HÁI VƯỢT SÔNG Hai tháng trôi qua, quân Tống lâm vào tình cảnh vô cùng khó khăn: thiếu lương, dịch bệnh, tinh thần quân sĩ sa sút. Nhận thấy thời cơ phản công đã chín muồi, Lý Thường Kiệt mở màn chiến dịch của mình bằng lời tuyên bố hùng hồn “Nam Quốc Sơn Hà” huyền thoại. NAM QUỐC SƠN HÀ Tháng 2 năm 1077, Lý Thường Kiệt tổng tấn công sang bờ bắc sông Như Nguyệt. Trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt, hai tướng Hoằng Chân và Chiêu Văn đã hi sinh anh dũng để lôi kéo sự chú ý của quân Tống, tạo cơ hội cho Lý Thường Kiệt dẫn quân đột kích vào doanh trại của phó tướng Triệu Tiết, tiêu diệt hầu hết quân giặc ở đây. Sau trận ác chiến đó, quân Tống suy sụp hoàn toàn, nhưng Quách Quỳ vẫn không chịu đầu hàng vì sợ bị vua Tống trách phạt. Lý Thường Kiệt muốn mau kết thúc chiến tranh, phục hồi kinh tế, nên đã chủ động giảng hòa với quân Tống. Ông còn cấp cho Quách Quỳ nhiều tàu bè và lương thực để thuận tiện về nước. Quân ta giành chiến thắng, giữ vững nền độc lập của Đại Việt. LẤY NHÂN NGHĨA THẮNG HUNG TÀN NHƯ NGUYỆT RỰC LỬA Về phần quân Đại Việt, sau khi rút lui khỏi Ung Châu, Lý Thường Kiệt đã gấp rút xây dựng một phòng tuyến khổng lồ dọc theo bờ nam sông Như Nguyệt, gồm những lũy đất kiên cố và rào tre dày đặc. Lực lượng chiến đấu khoảng 8 vạn binh mã từng trải sa trường, không hề thua kém khí thế của quân Tống. Sau thất bại to lớn Ung Châu, quân Tống thiệt hại nặng nề, tuy nhiên họ vẫn quyết tâm phục thù. Vua Tống lập tức huy động hơn 45.000 quân tinh nhuệ từ biên giới Liêu, Hạ giao cho Quách Quỳ làm chủ soái, Triệu Tiết làm phó. Đồng thời trưng tập thêm 50.000 binh mã và 200.000 dân phu dọc đường từ kinh đô tới Ung Châu. Đây là một lực lượng khổng lồ so với tình hình khủng hoảng của nhà Tống lúc bấy giờ. Số phận nước Đại Việt nhỏ bé như ngàn cân treo sợi tóc. PHÒNG TUYẾN NHƯ NGUYỆT Binh đao có thể kiềm chế giặc dữ nhất thời, còn nhân nghĩa sẽ tạo ra hòa bình lâu dài. LÝ THƯỜNG KIỆT TỬ CHIẾN NHƯ NGUYỆT


Nam quốc sơn hà được xem là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta, khẳng định Đại Việt là một nước có vua, có chủ quyền, sông núi toàn vẹn không ai được phép xâm phạm. Tương truyền, phía bờ Nam sông Như Nguyệt có đền thờ Trương Hống, Trương Hát rất linh thiêng. Thần từng giúp Ngô Quyền và Nam Tấn vương đánh dẹp giặc Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận tại sách trờI Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. nhà Lý cho lập phòng tuyến Như Nguyệt Chiến dịch Ung Châu toàn thằng nhà Tống cử Quách Qùy sang phục thù 100 vạn quân 200 vạn dân phu chiếm bờ bắc thủ ở bờ Nam 2 lần đánh tan quân Tống cho đọc Nam Quốc Sơn Hà tổng tấn công bờ bắc nghi binh đánh vào trại Quách Quỳ phó tướng đem viện binh cứu nguy bị tiêu diệt toàn bộ Lý Thường Kiệt đánh vào trại phó tướng 2 lần sang sông tấn công 60 vạn quân án binh bất động 2 tháng chưa chịu đầu hàng rút quân về nước mệt mỏi run sợ sĩ khí lên cao gửi thư cầu hòa Sơ đồ chiến thắng Như Nguyệt NAM QUỐC SƠN HÀ Lý Thường Kiệt: Thái Úy nhà Lý Quách Quỳ: tướng chỉ huy quân Tống dữ, được dân chúng hết sức kính phục. Đang lúc hai quân Tống - Việt giao chiến mỏi mệt, Lý Thường Kiệt cho người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát giả làm thần đọc vang bài thơ trên. Nhờ thế tinh thần quân Việt dâng cao, ai cũng hừng hừng khí thế đánh giặc. Còn quân Tống lại thêm phần sợ hãi. Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư


LÝ THƯỜNG KIỆT Lý Thường Kiệt thuộc dòng dõi Ngô Quyền. Từ nhỏ ông đã tỏ ra là người có nghị lực, chăm chỉ học binh pháp và rèn luyện võ nghệ. Cha ông đi tuần biên cương, không may lâm bệnh mất. Thường Kiệt bấy giờ 13 tuổi, đêm ngày đau xót khôn nguôi. Người dượng Tạ Đức đem lòng thương và dỗ dành, nhân đó hỏi ông về chí hướng, Thường Kiệt trả lời: "Con muốn đi xa vạn dặm để lập công, lấy được ấn phong hầu, để làm vẻ vang cho cha mẹ. Đó là sở nguyện. Dẫu thắng lợi trong tầm tay, nhưng Lý Thường Kiệt không truy cùng giết tận kẻ thù, mà chủ động giảng hòa, mở đường cho quân Tống an toàn về nước. Trước nghĩ cho sinh mạng bách tính, sau nghĩ cho sự hòa hiếu lâu dài giữa hai dân tộc, đó chính là đạo đức lớn nhất của bậc làm tướng vậy. Non sông sạch bóng quân thù. Lúc này vua mới 12 tuổi, Lý Thường Kiệt lại tiếp tục gánh trách nhiệm lớn của triều đình trong công cuộc xây dựng đất nước, chăm lo đời sống nhân dân. Già rồi, nhưng ông vẫn tình nguyện cầm quân đi dẹp loạn Lý Giác ở Diễn Châu (năm 1103), đánh Chiêm Thành quấy nhiễu ở Bố Chính (năm 1104). Năm 1105, Lý Thường Kiệt mất, thọ 86 tuổi. Lý Nhân Tông truy phong ông tước Việt quốc công, thực ấp 10.000 hộ và cho người em là Lý Thường Hiến được nối phong tước Hầu. Suốt cuộc đời cầm binh ông chưa từng thua trận nào, xứng danh thần tướng của nước Nam. Ông hội đủ những phẩm chất cao quý của bậc làm tướng, hơn hết đức độ của ông khiến trong ngoài cương thổ đều kính phục, tiếng thơm truyền đến muôn ngàn đời sau. Năm 1069, Thường Kiệt theo chân Lý Thánh Tông thảo phạt Chiêm Thành. Ông cưỡi ngựa đi đầu, hăng hái xông pha, truy bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Vua Chiêm xin hàng, đồng ý dâng 3 châu Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý để chuộc mạng. Sau chiến công ấy, ông được vua ban quốc tính, chính thức có tên Lý Thường Kiệt. Sang triều vua Lý Nhân Tông. Thường Kiệt và Lý Đạo Thành được phong làm phụ chính, giúp việc cho vua nhỏ. Lúc này, Trung Hoa đang mưu toan xâm lược nước ta. Trước tình thế nguy cấp như lửa cháy, thay vì ngồi yên đợi giặc, Lý Thường Kiệt chủ trương ""tiên phát chế nhân"", dẫn 10 vạn hùng binh đánh sang đất Tống, tiêu hủy lực lượng quân sự của giặc tại 3 châu Ung, Khâm, Liêm. Rồi khải hoàn rút về nước. Thường Kiệt chiến thắng mà không kiêu mạn. Vẫn ngày đêm chỉnh đốn binh mã, xây phòng tuyến Như Nguyệt nhằm đón chặn giặc dữ. Năm 1077, hơn 10 vạn quân Tống do Quách Quỳ làm soái kéo sang nước ta như vũ bão. Quỳ ham lập chiến công, nhiều lần vượt sông đều chuốc thảm bại. Lý Thường Kiệt kiên nhẫn phòng thủ, đợi giặc mỏi mệt liền tung đòn quyết định, đánh cho chúng không còn manh giáp. Năm 1041, Thường Kiệt còn ít tuổi, vì vẻ mặt tươi đẹp được sung làm Hoàng môn Chi hậu, tức một chức hoạn quan. Qua 12 năm làm nội thị dưới triều vua Lý Thái Tông, danh tiếng của Thường Kiệt ngày càng nổi. Sang triều vua Lý Thánh Tông, Thường Kiệt dần thăng lên chức Kiểm hiệu Thái bảo, ngày đêm bên cạnh cố vấn và can gián nhà vua.


Get in touch

Social

© Copyright 2013 - 2024 MYDOKUMENT.COM - All rights reserved.