vươn mình trong gió - học viện Flipbook PDF

Với vẻ đẹp mong manh trong trẻo, Hoa bồ công anh tuy chỉ là loài một hoa dại mọc ven đường nhưng lại ẩn chứa trong mình

103 downloads 122 Views

Recommend Stories


NEOPLASIA VULVAR INTRAEPITELIAL (VIN)
NEOPLASIA VULVAR INTRAEPITELIAL (VIN) Para la citación de la presente AEPCC-Guía se hará constar: “AEPCC-Guía: Neoplasia vulvar intraepitelial (VIN)

Tableros de Honeycomb HC:
INSUMOS Tableros de Honeycomb HC: Un Peso Ligero que Seduce al Mercado Alexandra Colorado Castro Periodista M&M Las celdas hexagonales que forman lo

SEAL-LOCK HC ANCILLARY SPECIFICATIONS ESPECIFICACIONES AUXILIARES SEAL-LOCK HC
TRANSLATED 05/20/08 SEAL-LOCK HC ANCILLARY SPECIFICATIONS ESPECIFICACIONES AUXILIARES SEAL-LOCK HC SUBJECT: OBJETO: SECTION V Prepared By GTF 05

CAPÍTULO vn. PLURALIZACION DEL ARTE
CAPÍTULO vn. PLURALIZACION DEL ARTE. I. Arte ütil y Arte Bello: Arte liberal y Arte mecánico.—^n. Formas que el Arte reviste.—m. Principios por los c

GRABADORA DIGITAL DE VOZ VN-7600PC
GRABADORA DIGITAL DE VOZ VN-7600PC ES INSTRUCCIONES Le agradecemos que haya adquirido una grabadora digital de voz Olympus. En las siguientes inst

Story Transcript

Chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Học viện Dòng Đức Maria Nữ Vương Hoà Bình Tổng hợp 2022


Vươn mình trong gió


“Theo đuổi hạnh phúc chính là nguồn sức mạnh lay chuyển con người” Sasaki Fumio


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 5 Arek được giải thoát khỏi tội lỗi nhờ cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria Nhiều năm nghiện phim ảnh có nội dung không lành mạnh, ảnh hưởng đến đời sống khiết tịnh, nhưng nhờ cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria, giờ đây Arek, 35 tuổi người Ba Lan, đã thoát khỏi đời sống tội lỗi này. Ngọc Yến - Vatican News Câu chuyện của Arek khởi đầu từ tuổi thơ bị đánh cắp. Khi còn nhỏ Arek thường nghe mẹ anh nói rằng bà không có thời gian để sinh anh ra. Ý bà muốn nói bà không có thời gian để nghĩ và làm gì khác ngoài công việc. Bà làm việc rất nhiều và đời sống rất khó khăn. Năm Arek lên hai tuổi rưỡi thì bố mẹ chia tay và Arek ở với người ông. Đời sống khó khăn, không có ai gần gũi hướng dẫn, lại thêm cảm thấy bị áp lực, sống khép kín, Arek tìm cách giải thoát qua phim ảnh có nội dung không lành mạnh và tự thoả mãn. Không nói với cha mẹ và người thân về việc mình bị nô lệ điều này, nhưng Arek có xưng thú trong toà giải tội. Arek đã cố gắng chiến đấu với sự nô lệ này, nhưng như anh chia sẻ, anh không thắng nổi. Anh nghĩ rằng mình sẽ chẳng bao giờ thoát được tội này. Nhưng rồi điều kỳ diệu đã đến, tất cả bắt đầu từ Đức Trinh Nữ Maria. Arek kể rằng Đức Mẹ đã hiện diện trong cuộc đời anh từ khi anh còn nhỏ. Những


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 6 người thân trong gia đình cho biết, khi vừa mới chào đời, anh bị suýt chết nhưng mọi người đã dâng anh cho Đức Mẹ và nhờ đó anh được chữa lành và sức khoẻ trở nên khá hơn. Nhưng trong nhiều năm anh không quan tâm nhiều đến Mẹ của Chúa Giêsu, anh chỉ chú ý đến Đức Mẹ khi phát hiện ra ngày sinh nhật của mình trùng với một ngày lễ Đức Mẹ. Từng bước, với sự khích lệ của bạn bè và người thân, Arek đã quyết định đi hành hương Đền thánh Đức Mẹ ở Czestochowa. Arek thú nhận rằng vào thời điểm đó anh vẫn còn chìm đắm trong cơn nghiện phim ảnh xấu. Tuy nhiên cuộc hành hương kéo dài trong 10 ngày đã cho phép anh sống khiết tịnh và tự do nội tâm. Đối với anh thời gian đó rất tuyệt vời. Anh đặt tâm hồn thanh khiết này trước sự hiện diện của Đức Mẹ. Anh đặt mình dưới áo choàng của Mẹ và cảm cảm nghiệm một sự che chở rất an bình. Sau đó, vào năm 2012, do bị chấn thương nặng, Arek không thể tiếp tục hành hương. Vì thế anh quyết định đến thăm những người bạn cùng tham gia hành hương với anh. Arek kể: “Đó là ngày 8/8/2012. Tôi nhớ rất rõ. Trong lúc cầu nguyện chung, tôi cảm nhận một sự ấm áp mạnh mẽ, như thể có một điều gì đó chiếu sáng từ bên trong. Tôi cảm thấy một tiếng nói trong tâm hồn. Đó là một giọng nữ hay nhất mà tôi từng nghe. Tiếng nói này nói với tôi: ‘Từ đây con không phạm các tội về đức khiết tịnh nữa’. Đối với tôi đó là một trải nghiệm không thể tin được, một trải nghiệm đầy sự dịu dàng và sự che chở của người mẹ. Những gì tôi cảm thấy dường như có thể chạm đến được, rất cụ thể. Chưa bao giờ tôi có trải nghiệm như vậy. Tôi không thể tưởng tượng được điều này. Từ đó, tôi không bao giờ bị lệ thuộc phim ảnh xấu nữa. Mỗi lần mở máy tính tôi không còn muốn truy cập vào những trang web tội lỗi nữa, tôi cũng không cảm thấy bị thôi


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 7 thúc làm điều này. Và nếu vô tình gặp phải nội dung xấu tôi tránh ngay. Tôi ý thức được rằng đây là một sân sủng, vì thực tế tôi đã không thể làm được mặc dù cố gắng. Cho tới nay, 10 năm đã trôi qua, hồng ân chữa lành này vẫn còn hiện diện nơi tôi. Sự giải thoát này mang cho tôi cảm giác biết ơn và yêu thương. Đức Maria đã cầu bầu cho tôi. Mẹ có một vị trí quan trọng trong tâm hồn tôi”. Arek cũng chia sẻ rằng không phải một sớm một chiều mà anh đã thoát được tội lỗi này. Bởi vì thực tế, hậu quả về tinh thần hoặc thể chất của sự nô lệ vẫn còn đó, cám dỗ luôn rình rập và ở quanh anh. Tuy nhiên anh không cảm thấy một sự thất vọng và nguy cơ ngã gục trước những cám dỗ. Khi được hỏi tại sao Chúa qua Mẹ Maria đã giải thoát anh khỏi sự lệ thuộc này, Arek trả lời: “Tất cả là ơn sủng Chúa. Tôi không biết tại sao Chúa lại làm như thế. Có thể tôi sẽ khám phá ra điều này sau khi tôi chết. Mặt khác, chính vì được chữa lành mà giờ đây tôi luôn cầu nguyện và nâng đỡ những ai đang ở trong tình trạng tội lỗi này. Khi tôi nghe ai đó nói họ đang phải vật lộn chống lại cám dỗ về đức khiết tịnh, ngay lập tức trong tôi nảy sinh ước muốn cầu nguyện cho họ. Tôi cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ là trung tâm trong kinh nghiệm chiến đấu sống đức khiết tịnh của tôi. Mẹ dịu dàng, ngọt ngào đầy tình mẫu tử với những người tội lỗi như tôi”.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 8 Phong trào ủng hộ sự sống ở khắp nơi trên thế giới đã chứng kiến nhiều anh hùng Công giáo vô danh. Đối với Giáo hội Hoa Kỳ, một trong những anh hùng thầm lặng trong hoạt động này đã qua đời ngày 24/7/2022; đó là bà Gail Quinn, 79 tuổi. Trong 40 năm, cùng với các Giám mục Công giáo Hoa Kỳ, bà đã hoạt động không mệt mỏi để bảo vệ sự sống. Hoạt động bảo vệ sự sống của bà Gail bắt đầu từ năm 1966, lúc đó bà làm phụ tá điều hành cho Ủy ban Đời sống Gia đình của các Giám mục Hoa Kỳ. Đến năm 1972, cuộc tranh luận quốc gia ngày càng gay gắt về vấn đề phá thai đã thúc đẩy các Giám mục thành lập một văn phòng dành riêng cho các hoạt động bảo vệ sự sống, và bà Gail được mời đứng đầu chiến dịch của các Giám mục trong hoạt động giáo dục và nâng cao nhận thức của người Công giáo về các vấn đề sự sống. Một trong các hoạt động của bà là viết về bảo vệ sự sống. Lúc đầu các bài viết của bà là các hướng dẫn giúp các giáo xứ thực hiện hoạt động bảo vệ sự sống. Sau đó, các cộng tác Sự dấn thân âm thầm của bà Gail Quinn cho hoạt động bảo vệ sự sống Bà Gail Quinn, người nắm giữ vai chính trong hoạt động bảo vệ sự sống của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, người đứng sau nhiều tiến bộ quan trọng nhất đối với sự sống ở Hoa Kỳ.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 9 viên của bà đã tổng hợp và đưa lên Internet để mọi người có thể tham khảo. Bên cạnh đó, bà còn đưa ra các gợi ý cầu nguyện và phụng vụ với nội dung bảo vệ sự sống. Bà còn đề nghị chọn tháng 10 là Tháng Tôn trọng Sự sống. Năm 1991, bà Gail trở thành Giám đốc Điều hành của Uỷ ban Hội đồng Giám mục về các Hoạt động bảo vệ Sự sống, và giữ chức vụ đó cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2006. Bà giám sát nỗ lực của các nhân viên trong việc giáo dục người Công giáo, ảnh hưởng đến chính sách công, giao tiếp với công chúng, và nâng cao hoạt động chăm sóc mục vụ. Tầm nhìn xa, sự khôn ngoan và sự kiên trì của bà đã được đánh giá rất cao trong Giáo hội qua sự công nhận của các Giám mục mà bà đã cộng tác, các nhân viên bảo vệ sự sống của giáo phận và đặc biệt của Vatican. Bà Gail từng là đại biểu chính thức của Tòa Thánh tại Hội nghị của Liên Hiệp quốc về Dân số và Phát triển ở Cairo năm 1994 và tại Hội nghị Thế giới về Phụ nữ năm 1995 ở Bắc Kinh. Tuy nhiên, hầu như bà vẫn “không được biết đến” bên ngoài cơ cấu của Giáo hội, bởi vì đó là cách bà muốn. Đối với các nhân viên, bà luôn trợ giúp họ hoàn thành công việc, và quảng đại hỗ trợ khi họ gặp khó khăn về tài chính hoặc những khó khăn khác. Bà khuyến khích mọi người nói sự thật trong khi làm việc bác ái, trong những vấn đề có thể khơi dậy những cảm xúc cay đắng. Tại Quốc hội, những năm 1990 là thời gian đầy thử thách và căng thẳng. Những người ủng hộ phá thai đã quảng bá “Đạo luật Tự do Lựa chọn”, tiền thân của “Đạo luật Bảo vệ Sức khỏe Phụ nữ”. Nhận thấy rằng mỗi thách đố cần nhiều hơn những lá thư và chứng tá từ các Giám mục, bà Gail đã phát động một chiến dịch lớn để tiếng nói của người Công giáo trên khắp đất nước được lắng nghe. Theo cách này hàng triệu tấm bưu thiếp đã được gửi đến các thành viên Quốc


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 10 hội, có thời điểm số bưu thiếp gởi đến quá nhiều khiến Quốc hội không thể tiếp nhận. Đối với các đạo luật về chăm sóc sức khoẻ, nhưng thực ra là cho phép phá thai, bà khẳng định ủng hộ tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe, nhưng nhấn mạnh rằng không được thúc đẩy phá thai như một cách để chăm sóc sức khỏe. Vào năm 1998, với sự cộng tác đắc lực của bà, các Giám mục Hoa Kỳ đã hoàn toàn chấp thuận tài liệu Sống Tin Mừng Sự Sống, áp dụng giáo huấn của Thông điệp vĩ đại Evangelium Vitae của Thánh Gioan Phaolô II tại Hoa Kỳ và kêu gọi người Công giáo giúp xây dựng văn hóa sự sống. Nhiều người coi đây là lời tuyên bố hùng hồn nhất về việc bảo vệ sự sống mà các Giám mục từng đưa ra. Uỷ ban của Hội đồng Giám mục về Hoạt động bảo vệ Sự sống cũng làm việc để thúc đẩy việc chăm sóc mục vụ tại các giáo phận trên khắp Hoa Kỳ: hỗ trợ phụ nữ mang thai và con cái của họ, chăm sóc giảm nhẹ cho những người mắc bệnh nan y, v.v. Dưới sự lãnh đạo của bà Gail, văn phòng đóng vai trò tích cực hơn trong việc thúc đẩy hòa giải và chữa lành sau phá thai, đồng thời bắt đầu phát triển sổ tay đào tạo quốc gia đầu tiên cho các linh mục về thừa tác vụ này. Bà Gail có tầm nhìn rộng để xem mỗi thách đố đòi hỏi phải phối hợp phản ứng đa hướng gồm các biện pháp thay thế vận động, giáo dục và quan tâm, giúp các giáo phận và giáo xứ phát triển các chương trình nhằm nâng cao mục tiêu đề ra. Mặc dù đã nghỉ hưu vào năm 2006, nhưng trong nhiều năm bà Gail vẫn tiếp tục phục vụ với tư cách là nhà tư vấn được kính trọng cho Ủy ban Giám mục về các Hoạt động bảo vệ sự sống.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 11 Sr. Rosalind Arokiaswami IJS Đây là trải nghiệm đầu tiên của tôi ở một đất nước xa lạ, nơi đã hứng chịu đại dịch Covid trong những năm gần đây, cuộc đảo chính quân sự ngày 1 tháng 2 năm 2021, dẫn đến cuộc nội chiến vào tháng 5 và còn đang tiếp diễn. Biến cố mới nhất này đã gây ra nhiều cuộc biểu tình, phản đối và bất ổn lan rộng ở nhiều nơi trên cả nước, trong khi nhiều người phải chạy trốn vào rừng để cứu lấy mạng sống của mình. Nhiều dòng tu đang sinh sống và làm việc tại Myanmar đã công khai bày tỏ sự phản đối trước tình hình này. Chỉ cần nhớ lại sơ Ann Rose Twang và cử chỉ can đảm của sơ khi quỳ gối trước một người lính đang chỉa súng. Về trải nghiệm đầu tiên của mình, tôi có nhiều cảm xúc lẫn lộn. Một mặt, là một người đến từ đất nước khác, tôi mang ơn chính quyền vì đã cho phép tôi làm việc ở đây. Tôi ý thức rằng thị thực của tôi có thể bị thu hồi và do đó tôi có nguy cơ bị đuổi về nước. Đồng thời, tôi hoàn toàn nhận thức được rằng tôi phải hết sức thận trọng trong lời ăn tiếng nói của mình vì có nguy cơ bị báo cáo với chính quyền. Sau khi trải qua nỗ lực hòa nhập vào thực tế mới này và học một ngôn ngữ mà tôi hoàn toàn không biết, thì lại có một thử thách khác: Thiên Chúa đã thử thách xem tôi có sẵn sàng chịu khổ với dân tộc mà chính Người đã giao phó cho tôi không. Tôi phải khiêm tốn nói rằng tôi đã có, và vẫn có những giây Ở lại giữa người dân của tôi ở Myanmar Sơ Rosalind Arokiaswami, nhà truyền giáo ở Myanmar, kể về thời điểm quyết định trong hành trình đức tin khi sơ quyết định “sẵn sàng hiến mạng sống của mình cho mọi người, đặc biệt là cho người nghèo”.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 12 phút nghi ngờ và lo lắng. Đôi khi tôi đã tự hỏi liệu tôi có đủ kiên nhẫn và trên hết là đức tin tín thác vào Chúa, Đấng sẽ không làm chúng ta thất vọng. Tình huống này là một thử thách thực sự đối với đức tin của tôi. Chân phước Barré đã nói rằng: “Ngay cả khi mọi sự dường như chống lại mọi hy vọng, hãy vẫn hy vọng nơi Chúa”. Câu hỏi đặt ra là liệu tôi có sẵn sàng tin tưởng những lời này của đấng sáng lập của mình hay không. Chậm rãi nhưng chắc chắn, theo một cách mà tôi không biết, tôi nhận ra cách Chúa đặt tôi vào những tình huống mà Người muốn tôi bày tỏ sự trung thành với Người. Đối mặt với những tình huống mà tôi chưa từng trải qua trước đây và tự mình lo liệu mọi việc, tôi nhận ra rằng “tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa” chính là sự an toàn duy nhất của chúng ta”. Đây chính là thời khắc quyết định trong hành trình ĐỨC TIN của tôi để khám phá rằng “mình không thể quay lại nữa”. Kể từ lúc đó, tôi quyết định sẵn sàng cống hiến cuộc sống của mình cho mọi người, đặc biệt là cho những người nghèo. Với nhận thức này (tôi có thể nói là giác ngộ), theo cách không thể giải thích được và được quan phòng, tôi cảm thấy trong lòng một sự bình an và thanh thản điều mà tôi chưa từng trải qua trước đây. Vì vậy, nhìn vào tình hình ở Myanmar, không có gì đảm bảo rằng cuộc sống của tôi được an toàn. Quân đội, không thể ngăn chặn sự phản đối của dân chúng và các cuộc tuần hành phản đối của người dân, đã bắt đầu bắn vào đám đông biểu tình. Nhiều người trẻ đã mất mạng. Nhiều phụ nữ trẻ bị giết và hãm hiếp không thương tiếc. Một số đông người vẫn đang chạy trốn và nhiều ngôi nhà của họ đã bị thiêu rụi. Trong bối cảnh này, không có gì đảm bảo rằng tôi có thể gìn giữ mạng sống của mình. Tôi có thể chết trong một vụ nổ bom hoặc chỉ với một viên đạn. Nghe có vẻ rất đáng sợ nhưng đây là thực tế mà chúng tôi đang phải đối mặt.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 13 Nếu đó là thánh ý Thiên Chúa dành cho tôi, tôi đã chuẩn bị sẵn sàng: như Chúa Giêsu đã hiến mạng sống mình vì đàn chiên của Người, tôi cũng sẵn sàng hiến dâng mạng sống mình cho những người tôi đang sống cùng. Do quân đội đàn áp, nhiều người đã mất việc làm và không có khả năng hỗ trợ gia đình của họ. Những người buôn bán vô lương tâm đã lợi dụng tình hình và nâng giá thực phẩm. Phần lớn dân số đang trên bờ vực của nạn đói. Nếu tình trạng này tiếp diễn, kết cục sẽ ngày càng thảm khốc và người nghèo sẽ là người chịu thiệt hại nặng nề nhất. Thật đau đớn và xót xa khi thấy nhiều người chết đói vì thiếu lương thực. Trước tình hình này, đại đa số dân chúng coi sự hiện diện của các sơ là một phúc lành. Họ đánh giá cao sự hiện diện của chúng tôi và sự hỗ trợ của chúng tôi. Họ biết rằng có một người mà họ có thể tìm đến bất cứ lúc nào, để trút bỏ những lo lắng, muộn phiền, thất vọng và đau khổ về tinh thần của họ. Chúng tôi không thể hỗ trợ họ về mặt tài chính, và họ biết điều đó. Tuy nhiên, nhìn chúng tôi và sự hiện diện của chúng tôi đã là một phúc lành. Trong văn hóa Á châu, cảm nghĩ này thường có trong các tín đồ Phật giáo, Công giáo và thậm chí cả những người theo Ấn giáo. Chính tại đây, tôi đã hiểu được trực giác ngôn sứ của Chân phước Barre khi ngài yêu cầu các giáo viên của mình sống cùng và giữa những người nghèo và xác định hoàn cảnh của họ. “Hãy ở bên họ”. Đây là tất cả những gì được mong đợi ở chúng tôi. Đồng thời, tôi nhận ra rằng chúng tôi được loan truyền Tin Mừng bởi những người mà chúng tôi sống cùng. Thông thường, họ là những người thầy tốt nhất cho chúng tôi và tôi có thể học hỏi được rất nhiều điều từ họ. Điều này đã trở thành hiện thực khi vào cuối tháng 6 năm


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 14 2021, tôi đến Yangon để gia hạn visa và hộ chiếu của mình. Tôi không chắc rằng thị thực của mình có thể được gia hạn hay không. Trước khi lên đường đến Yangon, tôi đã nói với mọi người rằng hãy nhớ đến tôi trong những lời cầu nguyện của họ. Phản ứng tự nhiên của họ khiến lòng tôi xúc động. Họ nói với tôi: “Sơ đừng lo lắng, mọi thứ sẽ ổn và sơ sẽ nhận được visa. Chúa sẽ không để sơ thất vọng. Người muốn sơ ở lại với chúng tôi. Người biết lòng của chúng ta.” Tôi nhận ra họ đang dạy tôi đức tin. Tuy nghèo, đơn sơ và ít học, nhưng họ có một đức tin mạnh mẽ hơn tôi. Bây giờ tôi hiểu rằng nếu Thiên Chúa muốn tôi tiếp tục phục vụ dân Người, Người sẽ làm những gì cần thiết. Tôi không có gì phải lo lắng ngoài việc thường xuyên cầu xin Người gia tăng Đức tin của tôi.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 15 Cuộc hoán cải của Antonio di Tommaso sau cuộc hành hương Đức Mẹ Mễ Du Antonio sinh ra và lớn lên trong một gia đình Tin lành, nhưng sau cuộc hành hương Đức Mẹ Mễ Du, anh đã quyết định trở thành tín hữu Công giáo. Tuy nhiên cuộc trở lại của anh không dễ dàng do người cha ngăn cản, nhưng cuối cùng anh được toại nguyện nhờ ân sủng và quyền năng Chúa. Ngọc Yến - Vatican News Antonio di Tommaso chia sẻ câu chuyện hoán cải của mình tại Lễ hội Giới trẻ Quốc tế lần thứ 30 tại Mễ Du vừa qua. Antonio năm nay 22 tuổi, sinh trưởng trong một gia đình Tin lành. Thời thơ ấu và niên thiếu của anh đầy những đau khổ và sợ hãi. Người cha nghiện ma tuý thường trút sự nóng giận lên người vợ và con cái. Antonio sống trong sợ hãi, đối với anh những ngày nghỉ lễ lại là những ngày tệ hại nhất. Anh nói: “Tôi nhớ vào những năm học cấp một, các bạn học của tôi mong đợi Chúa nhật để có thể ở với gia đình, đối với tôi trái lại, Chúa nhật là một ngày sợ hãi và tôi chờ đợi với sự lo lắng. Bởi vì Chúa nhật cha tôi không đi làm và ở nhà suốt ngày với chúng tôi. Điều này có nghĩa là ông đánh đập mẹ tôi, và anh em chúng tôi nhiều hơn”.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 16 Antonio lớn lên trong Giáo hội Tin lành, nhưng khi còn nhỏ dì của mẹ anh lại nói với anh về Đức Mẹ. Vào năm 2011, khi Antonio 11 tuổi, nhân dịp kỷ niệm 30 Đức Mẹ hiện ra, bà đã đưa anh đến Đức Mẹ Mễ Du. Khi đến nơi, trước tượng Đức Mẹ, Antonio cảm thấy một niềm vui vô biên. Anh nói: “Lúc đó trái tim tôi nói với tôi đây là mẹ bạn. Mễ Du trở thành nơi của tâm hồn, một ngôi nhà an toàn để nương ẩn mỗi khi gặp khó khăn cho tôi”. Trở về nhà, một năm sau, Antonio quyết định xin rửa tội, và xin cha mẹ nhưng cả hai không đồng ý. Không những không cho, sau đó người cha còn đánh đập Antonio nhiều hơn. Ở Mễ Du, Antonio đã học cách cầu nguyện với chuỗi Mân Côi, đi tham dự Thánh lễ và chầu Mình Thánh Chúa. Vì thế, mặc dù cha mẹ không cho gia nhập Công giáo, anh vẫn tiếp tục cầu nguyện trong âm thầm. Và để có thể đi tham dự Thánh lễ, muốn cha mẹ không biết, anh nói là đi chơi với bạn bè nhưng thực ra anh đến nhà thờ. Thời gian tiếp tục trôi nhanh, Antonio kiên trì cầu nguyện và ân sủng Chúa đã hành động trên anh và hỗ trợ anh. Ngày 25/12/2013, cha mẹ đã cho phép anh lãnh nhận bí tích Rửa tội và Thêm sức. Tới năm 2016, Chúa đã làm điều kỳ diệu trên người cha. Ngày đầu năm mới, khi thức dậy, ông nói với gia đình rằng Chúa đã chạm vào ông. Vào ngày đó ông quyết tâm bỏ ma tuý, vứt bỏ những điều làm cho gia đình xáo trộn và trở thành một người khác. Thế nhưng thử thách vẫn chưa dừng ở đây. Khi ông trở lại cộng đoàn cũ nơi ông đã lớn lên. Antonio kể: “Đây là nơi thập giá của tôi bắt đầu. Cha tôi gặp một số người và họ bắt đầu nói với ông rằng tôi là ma quỷ vì tôi đi theo Giáo hội Công giáo và chính tôi sẽ đem đến sự bất hạnh cho toàn thể gia đình. Trong giây phút bối rối mong manh và khủng hoảng đó cha tôi đã tin vào lời những người này. Ông lại bắt đầu cấm tôi thực hành đức tin. Khi thấy tôi


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 17 đeo chuỗi Mân Côi quanh cổ ông giật ngay xuống. Ông vứt bỏ tất cả tượng ảnh Đức Mẹ mà tôi đã mang về từ Mễ Du. Nhưng tạ ơn Chúa, tình trạng này chỉ diễn ra trong vài tháng. Tình yêu Chúa đã làm cho cha tôi hiểu rằng tất cả chúng ta là con cùng một Thiên Chúa, từ đó bầu khí trong gia đình tôi đã thay đổi đôi chút”. Sau đó, Antonio trở lại Mễ du một lần nữa và trong lòng anh vẫn chưa thực sự có sự hoà giải với người cha, và người cha cũng chưa được biến đổi hoàn toàn. Tại Mễ Du, Antonio tham dự buổi đi đàng Thánh giá. Giờ suy niệm đó dành cầu nguyện đặc biệt cho những người nghiện ma tuý. Trong lúc đi đàng Thánh giá, Antonio nhận ra rằng mình vẫn còn giận người cha. Anh nhận ra anh vẫn còn ghét người đã cho anh sự sống. Tiếp theo chiều hôm đó, có buổi cầu nguyện xin ơn giải thoát và chữa lành. Antonio kể tiếp: “Tôi đến đó với một tâm hồn trĩu nặng. Chiều hôm đó, Đức Mẹ đã trao cho tôi một sứ điệp: ‘Các con thân yêu, Mẹ xin các con hãy tha thứ để các con cũng sẽ được thứ tha’. Và ở đó tôi đã hiểu rằng tôi phải tha thứ cho cha tôi”. Tới ngày trở về nhà, tâm hồn Antonio cảm thấy một sự dịu ngọt. Khi tới sân bay anh không ngờ chính người cha đã ra đón anh. Hai cha con đã trao cho nhau những cái ôm đẹp nhất mà trước đây họ chưa bao giờ có. Một cử chỉ đầy yêu thương vượt trên những lời xin lỗi. Tiếp đến vào ngày sinh nhật lần thứ 18, cha của Antonio đã viết thư cho anh, xin anh tha thứ về tất cả những gì ông đã gây tổn thương anh. Về phần Antonio, anh cũng xin ông tha thứ về những gì anh chưa làm đủ với bổn phận làm con. Anh kết thúc buổi chia sẻ với những lời đầy tin tưởng và hạnh phúc: “Hôm nay gia đình tôi đang hít thở tình yêu Chúa. Mặc dù không cùng một Giáo hội nhưng cha tôi và tôi cùng cầu nguyện với Thiên Chúa của chúng tôi. Hiện nay, cha tôi đối


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 18 với tôi là một người hùng. Ông chỉ cho tôi biết Thiên Chúa có thể làm cho sa mạc nở hoa trong một đêm, và không có gì mà Thiên Chúa không thể làm được”. Đối với Antonio, câu chuyện của anh và gia đình anh là câu chuyện của thập giá nhưng cũng là câu chuyện của sự phục sinh. Một câu chuyện làm chứng về sức mạnh của lòng thương xót mà Chúa luôn hành động trong cuộc sống chúng ta ngay cả khi chúng ta không nhận thức được điều đó.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 19 Sứ vụ của ba nữ tu ở Cáp-ve trong việc giải thoát các nạn nhân của tệ nạn mại dâm Câu chuyện giống như chương 3 của Sách Xuất Hành đã truyền cảm hứng cho một sứ vụ vào thế kỷ 19 và tiếp tục giải phóng nhiều phụ nữ, vì tìm kế sinh sống, đã bị rơi vào mạng lưới khai thác bóc lột tình dục. Alicia Lopes Araùjo Giải phóng phụ nữ khỏi xiềng xích của bất kỳ hình thức nô lệ nào, đặc biệt quan tâm đến các nạn nhân của tệ nạn mại dâm và buôn người để khai thác bóc lột tình dục. Đây là sứ mạng được thực hiện bởi Dòng các nữ tu Chầu Thánh Thể và Bác ái, được bởi Micaela Desmaisières y López Dicastillo y Olmeda - ngày nay là Thánh nữ María Micaela - thành lập vào năm 1856 tại Madrid. Micaela là một thiếu nữ con nhà quý tộc Tây Ban Nha. Sau khi gặp một cô gái là nạn nhân của nạn mại dâm tại bệnh viện thánh Gioan Thiên Chúa ở Madrid, thánh nữ đã từ bỏ địa vị xã hội của mình để hiến dâng cuộc đời cho người khác và vào năm 1845, ngài đã mở nơi trú ẩn đầu tiên cho những phụ nữ bị bóc lột. Tiếp nối sức hút của vị sáng lập, các nữ tu Chầu Thánh Thể hiện phục vụ ở bốn châu lục với 170 dự án được phân phối tại 25 quốc gia. Trong một cuộc phỏng vấn, diễn giải đoạn sách Xuất hành chương 3, sơ Simona Perini kể rằng cũng từ quần đảo nhỏ Cáp-ve, “tiếng kêu đau khổ của nhiều phụ nữ, những người để tìm cách kiếm sống đã rơi vào mạng lưới bóc lột tình dục, đã đến tai chúng tôi”. “Làm sao chúng tôi có thể thờ ơ trước


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 20 tiếng kêu cứu này?” Sơ giải thích đây là lý do tại sao 13 năm trước một số chị em đã thành lập cộng đoàn các nữ tu chầu Thánh Thể ở thành phố Mindelo, trên đảo São Vicente. Ba nữ tu, sơ Simona người Ý và hai người Tây Ban Nha, vẫn đi đầu trong việc khôi phục nhân phẩm và cứu vớt những nạn nhân nữ hoặc những người có nguy cơ trở thành gái điếm, những người “sống trong điều kiện cực kỳ nghèo khổ trong các doanh trại ở ngoại ô, thường được xây dựng bằng kim loại tái chế của các thùng hàng, không có điện nước, khí đốt và điều kiện vệ sinh. Nhiều người trong số họ là những bà mẹ đơn thân, bị lạm dụng hoặc bị bỏ rơi bởi những người đàn ông của họ, buộc phải làm gái mại dâm để nuôi sống bản thân và gia đình của họ”. Trong những năm qua, hội dòng nhỏ đã trở thành một nơi hiện diện tự do và giải thoát cho những phụ nữ dễ bị tổn thương trên đảo. Vào năm 2016, họ đã phát động chương trình xã hội “Kredit na bo” (tiếng địa phương có nghĩa là “Hãy tin vào chính mình”), với các mục tiêu chính là: cứu vớt, thăng tiến cá nhân, tái hòa nhập các phụ nữ vào công việc xã hội, cũng như tố cáo các tình huống bất công. Chương trình - được thực hiện bởi một nhóm các chuyên gia người Cáp-ve - bao gồm một số dự án: trung tâm lắng nghe; hoạt động tiếp xúc với những người sống trong hoàn cảnh khó khăn; can thiệp tâm lý - xã hội với thanh thiếu niên có nguy cơ bị loại trừ và mại dâm và nâng cao nhận thức. Sơ Simona giải thích rằng trung tâm lắng nghe “là một không gian dành cho việc đón tiếp và đồng hành về giáo dục, tâm lý và pháp lý cho phụ nữ thuộc bất kỳ quốc tịch nào, từ 18 đến 40 tuổi (với một số trường hợp ngoại lệ), sống ở São Vicente hoặc ở các đảo khác. Những người này có cơ hội tham gia các khóa đào tạo (đọc viết, tin học, nấu ăn, cắt may). Một gói thực phẩm cũng được phân phát hàng tháng cho một số gia đình của những người tham gia chương trình. Tuy nhiên, sơ nhấn mạnh, đó là sự trợ giúp tạm thời để tránh rơi vào


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 21 tình trạng chỉ trợ giúp nhưng không phát triển. Còn mục đích của hoạt động tiếp xúc và trợ giúp những người lớn gặp khó khăn là thiết lập mối quan hệ trực tiếp với các nạn nhân của nạn mại dâm, khuyến khích tìm kiếm các giải pháp khác trong việc xây dựng một cuộc sống tự do và nhân phẩm. Sơ Simona chỉ ra rằng điều cần thiết là “chính chúng tôi phải biết thực tế xã hội, kinh tế và gia đình của tất cả những phụ nữ đến với dịch vụ của chúng tôi và quyết định đi một đoạn đường với chúng tôi. Các chuyến thăm gia đình hàng tuần được lên kế hoạch; sau đó các nữ tu và nhân viên đến các nhà, chia sẻ thời gian với người dân trong khu phố, trò chuyện hoặc uống trà. Khi đi bộ qua các con hẻm, họ quan sát và thu thập thông tin, để tìm ra một hướng đi đặc biệt.” Dự án này, hiện có 185 phụ nữ tham gia, “cũng xuất phát từ nhu cầu đưa ra câu trả lời cụ thể cho số lượng trẻ vị thành niên bị gạt ra ngoài lề xã hội ngày càng gia tăng; các em có nguy cơ rơi vào con đường mại dâm; trong môi trường dành riêng cho các em, các em có cơ hội được học các kỹ năng cần thiết cho sự phát triển hài hòa: hỗ trợ từ nhà trường, đào tạo theo nhóm về các giá trị, hỗ trợ tâm lý, giáo dục và pháp lý. Một mục tiêu quan trọng khác là nâng cao nhận thức trong xã hội Cáp-ve về các vấn đề liên quan đến buôn bán và bóc lột tình dục, phổ biến thông tin liên quan đến hỗ trợ nạn nhân và nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của những hành động và thiếu sót trong lĩnh vực này, để mọi người có trách nhiệm. Mặc dù kể từ năm 2007 Cáp-ve được coi là có chỉ số phát triển con người trung bình, nhưng nước này vẫn phải đối mặt với hạn hán và thảm họa thất nghiệp, đặc biệt là ở những người trẻ tuổi và phụ nữ. Theo Văn phòng các vấn đề nhân đạo của Liên Hiệp Quốc, 9,2% dân số sống trong cảnh nghèo đói cùng cực. Sơ Simona cảnh báo: “Việc thiếu triển


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 22 vọng có nguy cơ dẫn đến lạm dụng rượu, sử dụng chất kích thích thần kinh, trẻ vị thành niên phạm pháp, ăn xin. Trong những năm gần đây, mại dâm được thúc đẩy bởi du lịch tình dục và bi kịch mại dâm trẻ em cũng đã ảnh hưởng đến quần đảo”. Theo sơ, làm việc trong những bối cảnh tế nhị như vậy bao gồm những thách đố hàng ngày: “Ngày nay thách đố lớn nhất của chúng tôi là đảm bảo một nơi an toàn và đồng hành, trong một thời gian, với các thanh thiếu niên và phụ nữ dễ bị tổn thương nhất. Nhiều cô gái bị cha mẹ đỡ đầu và các thành viên trong gia đình hãm hiếp, một số khác có nguy cơ hoặc đã tham gia vào con đường mại dâm. Thêm vào đó là số ca mang thai sớm ngày càng nhiều, buộc nhiều bà mẹ trẻ phải chấp nhận chịu nạn bạo hành để có một mái nhà cho mình và cho đứa con trong bụng”. Cộng đoàn các nữ tu có ý định mở rộng lĩnh vực hoạt động của mình sang các đảo khác. Sơ Simona tuyên bố: “Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến việc thành lập những nơi trú ẩn cho các nữ nạn nhân của nạn buôn người, mại dâm, bạo lực giới tính và thanh thiếu niên dễ bị tổn thương”. Sơ Simona cho biết, nhờ một khoản tài trợ quan trọng của Tây Ban Nha, “trong thời gian chờ đợi, chúng tôi có thể hỗ trợ, với khoản tín dụng nhỏ, ước mơ của nhiều phụ nữ tham gia các khóa học nấu ăn của chúng tôi. Sau khi hoàn thành khóa đào tạo về khởi nghiệp, mỗi người sẽ nhận được một bộ dụng cụ. Các sản phẩm ẩm thực sau đó được bán như thức ăn đường phố”. Câu chuyện của Júlia, người “tự tin vào khả năng của mình”, đã trở thành hạt giống hy vọng cho nhiều phụ nữ khác. Sơ kể: “Người phụ nữ trẻ này, qua những lời truyền miệng, đã tìm đến trung tâm của chúng tôi nhiều năm trước để xin giúp đỡ: trước đó cô đã thử sống bằng nghề mại dâm, nên muốn tìm cách khác để nuôi gia đình đông đảo của mình và thoát khỏi tình trạng suy thoái. Júlia sống trong một ngôi


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 23 nhà nhỏ bằng thiếc và trong sân nhà cô chỉ có một chiếc bếp lò nhỏ để nấu ăn. Các nhà điều hành của chúng tôi đề nghị cô tham gia lớp học nấu ăn. Ước muốn được giải thoát và cần tin tưởng vào ai đó để hỗ trợ mình mạnh mẽ đến mức, ngay cả trước khi kết thúc khóa học, Júlia đã bắt đầu bán thức ăn do mình nấu nướng. Ngày nay, với một công việc tốt, cô đã có thể có được điều kiện sinh sống tốt hơn và đạt được mức sống an bình hơn”. Câu chuyện này là minh chứng rằng chúng ta có thể cùng nhau đảo ngược hành trình, bắt tay vào một con đường mới hướng tới tự do.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 24 Hoạt động chống nạn buôn người của diễn viên Eduardo Verástegui Diễn viên Công giáo Eduardo Verástegui ở Mexico đã phát động một chiến dịch quốc gia chống nạn buôn người trên quê hương anh. Ngọc Yến - Vatican News Eduardo Verástegui cho biết, chiến dịch có cảm hứng từ bộ phim anh vừa tham gia “Sound of Freedom - Âm thanh của sự tự do”, và cuộc chiến chống nạn buôn người là sứ vụ số một của anh trong lúc này. Nhà sản xuất kiêm diễn viên hiện đang đi khắp các nơi ở Mexico cùng với tổ chức của anh “Phong trào Sự sống Mexico”, trong nỗ lực hợp tác với chính quyền địa phương, các nhà giáo dục, các cơ quan thi hành pháp luật và các tổ chức để ngăn chặn tình trạng bóc lột trẻ em. Với mục đích này, Verástegui cùng với “Phong trào Sự sống Mexico” thúc đẩy các nỗ lực dân sự, làm việc cho một Mexico đổi mới. Phong trào mời gọi người dân phục vụ đất nước theo khả năng và cách thức khác nhau. Verástegui từng là nhà sản xuất cho “Sound of Freedom”, một bộ phim có sự tham gia của Jim Caviezel, người được biết đến nhiều với vai Chúa Giêsu trong “Cuộc khổ nạn của


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 25 Chúa Kitô”. “Sound of Freedom” mô tả cuộc giải cứu 127 trẻ em bị lạm dụng tình dục ở Nam Mỹ. Phim dựa trên câu chuyện có thật về cựu nhân viên CIA Tim Ballard, người đã thành lập Chiến dịch Đường sắt Ngầm nhằm chống nạn buôn người. Làm việc trong bộ phim đã giúp Verástegui nhận ra tầm quan trọng của nạn buôn bán trẻ em ở Mexico, quốc gia được xếp hạng thứ hai trên thế giới về mại dâm dưới tuổi vị thành niên. Verástegui nhấn mạnh: “Mexico dẫn đầu nạn buôn bán trẻ em, bóc lột tình dục trên toàn thế giới. 60% phim nội dung khiêu dâm trẻ em được tiêu thụ trên hành tinh bắt nguồn từ Mexico và đến từ nạn buôn người. 21.000 trẻ em biến mất mỗi năm ở Mexico, và phần lớn phải làm nô lệ tình dục. Hoa Kỳ là nước tiêu thụ số 1 những nạn nhân này. Nỗi đau của rất nhiều nô lệ trẻ em không thể khiến chúng tôi thờ ơ”. Để đấu tranh chống tội phạm buôn bán trẻ em, Phong trào Sự sống México đang thực hiện cuộc hành trình chống buôn người qua 32 bang của đất nước. Phong trào ký các thỏa thuận làm việc với các thống đốc, chính quyền và các nhà lãnh đạo từ các lĩnh vực khác nhau của xã hội, và thành lập các đơn vị chuyên điều tra chống buôn bán trẻ em nhằm bóc lột tình dục. Verástegui nói: “Chúng tôi muốn đảm bảo rằng những kẻ xâm hại tình dục bị tố cáo, bởi vì các nạn nhân không thể tiếp tục sống với lòng thương xót của những tên tội phạm này. Chúng tôi muốn đưa chúng ra khỏi đường phố, ngăn không thể tiếp cận nạn nhân một lần nữa, đặt chúng vào tay công lý và nhờ đó chúng ta có một đất nước công bằng, trách nhiệm và an toàn hơn”. Trong một cuộc phỏng vấn tại vườn Vatican sau Hội nghị


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 26 thượng đỉnh đầu tiên dành cho các nghệ sĩ, cùng nhau thảo luận về cách nghệ thuật và giải trí có thể truyền cảm hứng cho hy vọng, Verástegui cho biết mục tiêu của anh trong lúc này là “phong trào chấm dứt nạn buôn bán trẻ em”. Anh nói: “Tôi tin rằng nếu tất cả chúng ta cùng làm việc, chúng ta sẽ chấm dứt thực tế khủng khiếp này bởi vì con cái Thiên Chúa không phải để buôn bán”. Verástegui đã gặp Đức Thánh Cha trước khi bắt đầu thực hiện “Sound of Freedom” để xin Đức Thánh Cha chúc lành cho dự án. Đối với anh, cuộc gặp trước khi bộ phim được phát hành là rất đặc biệt. Anh chia sẻ: “Được nói chuyện với Đức Thánh Cha tại vườn Vatican, trong một dịp có nhiều người nổi tiếng là một cơ hội rất đặc biệt”. Nam diễn viên khẳng định: “Đức tin là phần quan trọng nhất trong cuộc đời tôi. Đó là trung tâm cuộc đời tôi. Tất cả mọi sự tôi làm đều được truyền cảm hứng từ đức tin của tôi”. Lần đầu tiên Verástegui trở nên nổi tiếng với khán giả Hoa Kỳ nhờ vai diễn chính trong bộ phim ủng hộ sự sống “Bella” và đã tiếp tục là một tiếng nói tích cực trong phong trào ủng hộ sự sống. Verástegui nói: “Tôi rất vui vì qua hoạt động và lời cầu nguyện của rất nhiều người, cuối cùng, chúng tôi đã thấy một kết quả lớn. Đây chỉ là khởi đầu. Chúng tôi vẫn chưa hoàn thành công việc bởi vì bây giờ chúng tôi phải đi đến từng bang, và chúng tôi đang tiến về phía trước. Chúng ta phải chiến đấu mỗi ngày… bởi vì chúng ta yêu mến Thiên Chúa và chúng ta yêu món quà đẹp nhất mà Chúa đã ban cho chúng ta, đó là sự sống”.


“Giá trị của một người không phải là những gì người ấy đạt được, mà là những ảnh hưởng của người ấy mang lại.” - Anbert Einstein -


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 29 Kinh nghiệm của một nữ tu tại một trung tâm đón tiếp người tị nạn Sơ Maria Giovanna Titone, Dòng Thánh Giuse Chambèry, điều hành một nhà cư trú cho người tị nạn tại một giáo xứ. Sơ đã thuật lại việc sơ đã tận mắt chứng kiến nhiều câu chuyện cảm động như thế nào và cách sơ học để vượt qua những thách đố to lớn vượt sức của sơ. Maria Giovanna Titone cjs Công việc phối hợp điều hành một cơ sở của giáo xứ dành cho người tị nạn đã mang lại cơ hội chứng kiến tận mắt nhiều câu chuyện cảm động. Những kinh nghiệm trước đây của tôi khi làm tình nguyện giúp đỡ những người vô gia cư có lẽ tập trung nhiều hơn vào việc tìm ra “các chiến lược” để tiếp cận họ và những gì tôi có thể cho họ: một thứ gì đó để ăn uống và một vài lời an ủi và động viên, cùng với những thông tin hữu ích hoặc giả định là có ích. Nhưng việc quản lý một cơ sở xã hội giúp đỡ những người gặp khó khăn đặt ra những thách thức khác. Đó là phải dẹp qua một bên ngay cả những ý định tốt nhất của mình để nhường chỗ cho cuộc sống của những người mà chúng tôi tiếp đón và tiếp tục là những người loan báo về niềm hy vọng Kitô giáo bất chấp sự bất lực mà chúng tôi thường xuyên gặp phải.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 30 Cơ sở đón tiếp của chúng tôi, có tên “Chúa Chiên Lành”, nằm ở Giáo xứ thánh Rocco, thành phố Ravenna, phải đối mặt với thách đố hàng ngày liên quan đến sự cam chịu và mất đi ý nghĩa sống của những cần chúng tôi trợ giúp. Chúng tôi liên tục nhận được yêu cầu của những người nhập cư trẻ tuổi, những người đang trong tình trạng đau khổ lo lắng chờ đợi thủ tục giấy tờ và được đưa vào các Trung tâm Tiếp nhận Đặc biệt (CAS) ngày càng đông đúc. Ravenna không nằm trên lộ trình của các luồng di cư, nhưng có tin đồn lan truyền rằng Trụ sở Cảnh sát sẽ sớm xử lý các tài liệu (một thông tin không chính xác) và nhiều người đi theo lộ trình này để đạt mục tiêu trước hết là được ở Ý hợp pháp, nhưng họ đang phải chờ đợi lâu dài (trung bình từ 2 đến 8 tháng) mà không có việc làm, nhà ở và tiền bạc, nói cách khác, là sống trên đường phố. Cũng có nhiều yêu cầu từ những người bị rối loạn tâm thần và nghiện ngập; họ không tìm thấy một mạng lưới bảo vệ đầy đủ, không gia đình và bảo hiểm y tế, và do đó cuối cùng trở thành những khách trọ của những nhà cư trú như trung tâm của chúng tôi. Cấu trúc nhỏ của chúng tôi, trong thời gian đại dịch Covid-19 có thể đón tiếp tối đa 15 người nam và 3 phụ nữ, do đó đang phải đối mặt với những thách thức lớn hơn nhiều. Tôi thường tự hỏi đâu là ý nghĩa của việc sống loan báo Tin Mừng trong cơ sở đón tiếp này, nơi cần phải có sự quyết tâm, sự chú ý đến những chi tiết cụ thể và tầm nhìn tổng thể, sự quan tâm đến các mối quan hệ với các cơ quan công quyền, hiểu biết về địa phương và các nguồn lực của nó, nhận thức về những giới hạn của chính mình, của các cá nhân và của chính việc tiếp đón, nhưng không bị cuốn hút vào những cuồng vọng cứu đời hoặc sự chán nản. Trên thực tế, chúng


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 31 tôi cũng thấy mình phải đứng trước những lựa chọn khó khăn, chẳng hạn như tránh xa một số người khi đối mặt với những hành vi quá khích hoặc vi phạm nghiêm trọng nội quy hoặc từ chối đón tiếp thêm những người muốn đến khi nhận ra rằng mình không có khả năng đối mặt với những bất tiện mà những người trọ trong cơ sở của chúng tôi phải gặp phải. Và trên thực tế, chúng tôi - một cơ sở đón tiếp nhỏ, được thành lập hơn 20 năm bởi cha Ugo Salvatori, người từng là linh mục của Giáo phận Ravenna-Cervia, và được tiếp tục thực hiện bởi các tình nguyện viên - không thể đơn độc lo lắng cho cuộc đời của những người này. Các cơ quan điều hành mà chúng tôi cố gắng kết nối thường dựa vào các cơ sở như của chúng tôi để ứng phó cách khẩn cấp với các tình huống cần phải được công nhận như là các quyền lợi. Một điều rõ ràng là nguồn lực tài chính và nhân sự để theo dõi các vụ việc đang thiếu thốn; cơ sở vật chất đầy đủ để đáp ứng những người có nhu cầu về sức khoẻ và nhà ở cũng đang thiếu. Thời gian lo liệu các thủ tục giấy tờ để chính thức hóa sự hiện diện của người nhập cư ở đất nước chúng ta quá dài và không chắc chắn ... Chính vì tất cả những lý do này, cung cấp cho họ một chiếc giường và một nơi để tắm rửa thôi là chưa đủ, mặc dù đối với những người mà chúng tôi tiếp đón đây đã là điều cần thiết để đưa họ ra khỏi đường phố và khỏi sự tuyệt vọng. Cần phải là tiếng nói của những người không có tiếng nói đối với xã hội phương Tây của chúng ta, thu hút sự chú ý của các tổ chức và dư luận để việc nhớ đến những người rốt cùng không chỉ là một khẩu hiệu vận động bầu cử, mà là một nhu cầu văn minh, thậm chí trước khi nó là vấn đề bác ái. Là Kitô hữu, chúng ta không thể hài lòng với một chính sách sử dụng các biểu tượng tôn giáo khi cần thiết, nhưng chúng


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 32 ta phải đòi hỏi và yêu cầu rằng các chương trình và các lựa chọn hành chính cần đáp ứng nhu cầu thực sự của người dân, và trên hết là những người yếu thế nhất. Bác ái và niềm hy vọng Kitô giáo, theo sự quan sát của tôi khi điều hành cơ sở đón tiếp nhỏ bé này của giáo xứ, không thể nói là hài lòng với những điều ít ỏi chúng ta làm được, nhưng cần một lương tâm tích cực và phê phán, cảm thấy bắt buộc phải thúc đẩy công bằng xã hội và dấn thân thực hiện những lựa chọn cụ thể, yêu cầu rằng những người rốt cùng không bị bóc lột và sau đó lại bị lãng quên. Là một Giáo hội, chúng ta phải yêu cầu rằng các giá trị nền tảng của chúng ta không được nhắc lại để tạo ra sự chia rẽ giữa những người có thể hoặc không thể tiếp cận các bí tích, nhưng được thực hiện một cách nhất quán trong các lựa chọn chính trị và xã hội nhằm thúc đẩy một xã hội trong đó mọi phụ nữ và nam giới được công nhận trong phẩm giá của con người. Như Đức Hồng y Matteo Zuppi, chủ tịch Hội đồng giám mục Ý, đã nhấn mạnh trong lời cảm ơn ông Mario Draghi “chúng ta phải nghĩ về nỗi đau của con người và đảm bảo hành động nghiêm túc, không mang tính ý thức hệ hoặc lừa dối; điều này cũng chỉ ra rằng, nếu cần, hãy hy sinh, nhưng mang lại sự an toàn và động lực hy vọng”; “cuộc đối đầu chính trị cơ bản không được thiếu sự tôn trọng và phải dựa trên sự hiểu biết về các vấn đề, trên tầm nhìn chung và không lừa dối, với niềm đam mê công việc chung và không có những tranh đua không chính đáng, những điều hầu như chỉ hướng đến những lập trường cá nhân nhỏ nhặt và không giải quyết các vấn đề”.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 33 Florès ở Indonesia, đảo của các linh mục Indonesia là quốc gia đa số theo Hồi giáo, nhưng ở đảo Flores lại có nhiều người Công giáo nhiệt thành, là nơi có rất nhiều ơn gọi tu sĩ và được gọi là “Vatican nhỏ”. Ngọc Yến - Vatican News Đảo Flores là một phần của quần đảo Sonde phía đông nam indonesia. Đảo có hơn 1 triệu cư dân. Khi các nhà truyền giáo đầu tiên Dòng Ngôi Lời đến đảo vào năm 1914, họ đã nhanh chóng tìm một nơi để đào tạo các thế hệ tiếp theo. Vào năm 1930, các nhà truyền giáo đã tạo dựng trong rừng nhiệt đới một chủng viện, và ngày nay đang phát triển mạnh mẽ. Đảo Flores là một nơi đặc biệt trong bản đồ tôn giáo ở Indonesia. Trong khi ở quốc gia này 85% theo Hồi giáo thì tại đảo này tỉ lệ người Công giáo là 70%. Người Công giáo ở đây đã phát triển các hình thức thực hành đạo cho riêng mình, như “Semana Santa”, một cuộc rước kiệu long trọng tượng Đức Mẹ và Chúa Giêsu Kitô, và đỉnh cao là thứ Sáu Tuần Thánh. Truyền thống này đã có từ hàng thế kỷ trước. Theo truyền thống, một người nam tên là Resiona, gặp một người phụ nữ đang tìm ốc trên bãi biển. Khi Resiona hỏi phụ nữ cô từ đâu đến và tên là gì, người phụ nữ này trả lời bằng ba từ đơn giản và viết trên cát:


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 34 Reinha Rosario Maria- Maria Nữ Vương Mân Côi. Ngay lập tức người phụ nữ biến thành một bức tượng gỗ. Từ đó bức tượng gỗ luôn hiện diện trong các cuộc rước cho đến ngày nay, giữa những người có trang phục màu đen, như dấu hiệu của sự sầu thương trong thứ Sáu Tuần Thánh. Đức cha Ewaldus Martinus Sedu, Giám mục của Maumere, một giáo phận nhỏ của trung tâm đảo Flores, Indonesia vui mừng nói: “Giáo hội non trẻ của chúng tôi là một Giáo hội truyền giáo. Chúng tôi đang gửi 500 linh mục và tu sĩ ra đi thi hành sứ vụ ở khắp nơi trên thế giới”. Khi được hỏi đâu là bí quyết cho sự thành công này, Đức cha Ewaldus trả lời: “Rất đơn giản, chính gia đình là mảnh đất tốt ươm mầm ơn gọi”. Theo Đức cha, qua việc lãnh nhận các bí tích và thực hành bác ái các gia đình Công giáo ở Flores cung cấp “một môi trường tốt nơi hạt giống của Chúa có thể được gieo”. Đặc biệt chủng viện của các Thừa sai Ngôi lời, nơi đào tạo 1.200 chủng sinh, là chủng viện lớn nhất trên thế giới. Trong năm vừa qua, nhiều Thánh lễ truyền chức linh mục đã được cử hành, các học viện của các dòng vẫn tiếp tục hoạt động. Cha Patrick Suryadi, được truyền chức linh mục ngày 04/10/2017, đã được sinh ra trong một bầu khí nhiệt thành này. Cha Patrick hạnh phúc trong vai trò giáo dục và người kiến tạo hoà bình mà Giáo hội đang thực hiện trên quê hương cha. Cha cho biết, ở đây có 6 dân tộc với lối sống và ngôn ngữ khác nhau. Cha rất vui khi thấy những nỗ lực đã được thực hiện trong chủng viện để các nhóm sắc tộc có thể hiểu biết nhau. Trong quá trình đào tạo, cha đã nhận được sự hiểu


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 35 biết đa dạng phong phú này, điều trước đây cha chưa nhận thức rõ. Thách đố chính mà cha Patrick phải đối diện trong sứ vụ đó là đời sống nghèo của người dân, vì thực tế đảo Flores là một trong những đảo nghèo nhất của quần đảo. Người trên đảo chủ yếu làm nông nghiệp. Người dân địa phương đang thiếu thốn mọi thứ: thực phẩm, trợ giúp y tế, tài liệu giảng dạy… Mỗi tháng, hơn 200 gia đình có được các bữa ăn nhờ các gói thực phẩm do các linh mục cung cấp. Giáo hội ở đây cũng hỗ trợ xây các ngôi nhà nhỏ cho những người bị thiểu năng tâm thần. Cho tới nay, đã có khoảng 50 ngôi nhà đã làm xong và trao cho các gia đình, mang lại niềm vui và hy vọng mới cho các bệnh nhân, những người thường bị gạt ra một bên. Nhưng cha cũng cho biết điểm tích cực. Từng bước suy nghĩ của người dân đã thay đổi, họ quan tâm hơn đến chất lượng giáo dục của con cái. Người dân bắt đầu nhận ra rằng khẩu hiệu “Làm việc trên mặt đất cho đến khi tróc móng tay và lưng bị mặt trời làm bỏng”, không phải là một đảm bảo để đạt được một cuộc sống sung túc, nhưng làm việc thông minh, hiệu quả, điều này chỉ có thể đạt được nhờ giáo dục. Ở đảo này, Giáo hội đóng một vai trò chính trong lĩnh vực giáo dục. Sự hiện diện của các trường Công giáo, và từ năm 2019 với trường đại học Công giáo, cho phép cải tiến khả năng tiếp cận nền giáo dục chất lượng. Vì thế, xét về vai trò xã hội, không có gì ngạc nhiên khi Giáo hội luôn được đánh giá cao.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 36 Thánh Francesca Rubatto, nữ chứng nhân của tinh thần Phanxicô thời hiện đại Nữ tu Francesca Rubatto - một người di cư, một nữ tu, một người chị em trong số các chị em, vị thánh đầu tiên đến của Uruguay - “vào cuối cuộc đời, ngài đã để cho mình được thiêu đốt bởi lòng bác ái và tình yêu dành cho Chúa Giêsu và người nghèo”. Sebastián Sansón Ferrari Các con hãy là những nữ tu của dân chúng”, đây là những lời mà Thánh Francesca Rubatto, vị thánh đầu tiên của Uruguay, đã viết cho các nữ tu Dòng Nữ tu Capuchino. Thánh Francesca Rubatto, tên thời niên thiếu là Anna Maria, sinh ngày 14 tháng 2 năm 1844 tại Carmagnola, nước Ý; ngài được Đức Thánh Cha Phanxicô tuyên thánh vào Chúa Nhật ngày 15 tháng 5 năm nay (2022). Câu nói trên là tinh thần đã thôi thúc cuộc đời và việc tông đồ của thánh nhân tại Montevideo, thủ đô của Uruguay, nơi ngài đã sống theo sự lựa chọn của chính mình từ năm 1892 cho đến khi qua đời vào năm 1904. Trên thực tế, trong di chúc của mình, thánh nhân đã để lại điều mong ước như sau: “Chớ gì thân xác tôi được chôn cất giữa những người nghèo yêu dấu của tôi”.Trang web của dòng do thánh Francesca Rubatto thành lập đã xác nhận rằng thánh nhân đã “mang lại cho tinh thần Phanxicô một phiên bản nữ giới hiện đại” và cũng “tạo thành một trong những nhân vật vĩ đại nhất của tinh thần Phanxicô đương thời”. Trang web còn nói thêm: “Cũng giống như Thánh Phanxicô Assisi, Mẹ Francesca đã gặp Chúa Kitô


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 37 trong những người nghèo khó và đau khổ và có một kinh nghiệm xác thực về sự nghèo khó của Đức Trinh Nữ”. “Thánh nhân là một người chị em giữa các chị em hơn là một người mẹ sáng lập dòng, và ngài đã sống một lòng nhiệt thành truyền giáo và khát vọng tử đạo sâu sắc đến nỗi những điều này đã đồng hành với ngài đến cuối đời bằng lòng bác ái và tình yêu đối với Chúa Giêsu và người nghèo.” Được thành lập vào ngày 23 tháng 1 năm 1885, Hội Dòng hiện có mặt tại Ý, Uruguay, Argentina, Brazil, Peru, Ethiopia, Eritrea, Kenya và Malawi với các trường học, giáo xứ nơi các nữ tu làm việc và hoạt động trợ giúp những người khó khăn nhất. Là người Uruguay qua chọn lựa và quyết định Khi đến Uruguay, Mẹ Francesca Rubatto đã chọn khu vực La Teja, Belvedere, Paso de la Arena và Barra de Santa Lucía, nơi lúc bấy giờ là một vùng đất hoang vắng. Mẹ hòa nhập với mọi người, ngay cả với những công nhân đến lò mổ vào sáng Chúa Nhật, và đi xe lửa với họ vào lúc 4 giờ sáng. Với tầm nhìn sâu rộng, Mẹ quyết định đưa một nhóm nữ tu của mình đến cư trú tại quận Belvedere, nơi có đền thánh ngày nay là nơi an nghỉ của Mẹ. Mẹ Rubatto đã thực hiện một công việc quảng bá và truyền giáo đáng khen ngợi: mẹ đã giúp các thiếu nữ học nghề để kiếm sống, để họ không phụ thuộc vào gia đình. Mẹ dạy họ đọc, viết, may, dệt, thêu, nhưng cũng đào tạo tôn giáo cho họ. Các xưởng do Mẹ Francesca thành lập sau này đã trở thành những học viện lớn, ví dụ như trường trung học San José de la Providencia ở Montevideo hay trường San Francisco de Asís ở Rosario và Buenos Aires, Argentina. Nghệ thuật sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 38 Một trong những đặc điểm nổi bật của Thánh Francesca là Mẹ sẵn sàng đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa trong những thử thách mà thực tế đặt ra cho Mẹ và sau đó hành động. Đây là điều mà Cha Carlo Calloni, thỉnh nguyện viên của án phong thánh, đã nhận xét trên Đài phát thanh Vatican - Vatican News. Ví dụ, vào năm bốn mươi tuổi, Mẹ được đề nghị chỉ đạo một công việc ở Loano, thuộc giáo phận Genova. Lời mời gọi đã xảy ra một cách kỳ lạ so với cách suy nghĩ của con người: “Một hòn đá rơi xuống từ giàn giáo và Mẹ đã giúp người thợ nề đang bị thương, và đồng thời nhận được cuộc gọi của một tu sĩ Capuchino, Cha Angelico từ Sestri Ponente, đề nghị Mẹ giữ vị trí giám đốc.” Sau đó, Mẹ Rubatto đã cùng với vị linh hướng của mình xem xét lời đề nghị và quyết định chấp nhận. Thánh Francesca Rubatto và Thánh Gioan Bosco Một khía cạnh ít được biết đến của thánh Francesca Rubatto là sự gần gũi của Mẹ với thánh Gioan Bosco. Gia đình Salêdiêng ở Uruguay đã tìm hiểu vấn đề và giải thích ảnh hưởng quyết định của “Người cha và người thầy của giới trẻ” đối với thánh Francesca. Theo một ấn phẩm của các tu sĩ Salêdiêng ở Uruguay, chương trình giảng dạy của vị thánh mới cho thấy “một mối liên kết mạnh mẽ và quyết định với thánh Gioan Bosco”. Anna Maria, thánh Francesca Rubatto sau này, đến Torino vào năm 1862, sau khi gia đình qua đời gần hết, và định cư tại nhà của người chị đã kết hôn và sau đó làm việc với một nữ bá tước giàu có. Đó là thời gian thánh Gioan Bosco làm việc tại các học viện của ngài và Anna Maria quyết định cộng tác với ngài với sự chín chắn, thận trọng, nhân hậu và dịu dàng, những điều luôn là đặc điểm của cô. Các tu sĩ Salêdiêng nhận định rằng những lời tiên tri của


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 39 thánh Gioan Bosco đã được ứng nghiệm hoàn toàn và Anna Maria đã đưa nhiều yếu tố khác nhau của Hệ thống giáo dục dự phòng vào sứ vụ của mình, ví dụ như mong muốn trợ giúp những người trẻ bị bỏ rơi nhất để giáo dục và thăng tiến các em, nhằm mang lại phẩm giá cho cuộc sống của các em. Vị thánh đầu tiên của Uruguay Việc nhìn nhận Mẹ Francesca Rubatto là “vị thánh đầu tiên của Uruguay” được gợi hứng từ định nghĩa của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Trong lễ tuyên phong chân phước cho Mẹ vào ngày 10 tháng 10 năm 1993, thánh Gioan Phaolô II khẳng định: “Hôm nay chúng ta chào Mẹ với tư cách là vị chân phước đầu tiên của Uruguay.” Thánh Gioan Phaolô II nói thêm trong bài giảng: “Giáo hội chào ngài, Nữ tu Maria Francesca di Gesù, Đấng sáng lập Dòng Ba Capuchino ở Loano, người đã biến cuộc sống trở thành việc phục vụ không ngừng cho những người thấp bé nhất, như một bằng chứng về tình yêu đặc biệt mà Thiên Chúa dành cho những người nhỏ bé và những người khiêm tốn. Khi trung thành sống theo những lời của thánh Phanxicô, người yêu mến sự nghèo khó theo Phúc Âm, ngài đã không chỉ học phục vụ người nghèo, mà còn tự làm cho chính mình trở nên nghèo khó và chỉ cho các con thiêng liêng của ngài cách thức truyền giáo đặc biệt này. Với sự phát triển của Hội dòng, trực giác ban đầu này đã trở thành một động lực truyền giáo sâu sắc, điều hướng dẫn ngài và công việc của ngài ở Châu Mỹ Latinh, nơi một số người con cái thiêng liêng của ngài đã gắn bó, sẵn sàng hy sinh mạng sống của họ để phục vụ người nghèo, điều tạo nên đặc sủng được uỷ thác cho Hội dòng của ngài vì lợi ích của toàn thể Giáo hội”.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 40 Cuộc hoán cải của một sát thủ ở Mexico Dưới đây là câu chuyện của một sát thủ người Mex- ico. Lòng thù hận trong quá khứ đã trở thành vũ khí giết người không thương tiếc, không hối hận. Nhưng câu chuyện của sát thủ này cũng tỏ cho thấy quyền năng vô biên của Thiên Chúa trên sự dữ. Ngọc Yến - Vatican News Câu chuyện có thật nhưng vì sự an toàn nên tên nhân vật không được tiết lộ. Tuổi thơ của sát thủ người Mexixo rất khó khăn. Bị người cha từ chối, mẹ không đủ khả năng nên đem anh đi gửi những người thân trong gia đình, rồi sau đó anh lại trở về với mẹ. Người chồng sau này của bà cũng không mấy tốt lành, anh thường xuyên bị đánh và bỏ đói, vì thế anh trở nên hung hăng thất thường và nghiện ma tuý. Càng ngày anh càng lao xuống vực thẳm của cái xấu. Không thiếu những người sẵn sàng mang rượu và ma tuý đến cho anh. Và cứ thế ngày tháng trôi qua. Một ngày kia, anh nghe một tiếng nói bên tai, sau này anh biết đó là tiếng ma quỷ: “Hãy tự sát, vì mày vô dụng, chẳng ai yêu mày, mày là thứ bỏ đi”. Anh lấy dây thắt cổ tự tử. Và khi tỉnh dậy anh không biết mình đang ở thiên đàng hay hoả ngục. Anh nói: “Tôi cảm thấy hối hận và cầu xin Chúa tha thứ vì hành động tự sát này. Tôi không hiểu tại sao mình lại được cứu thoát, vì thực tế, tôi được biết sợi dây không bị đứt. Nhớ lại cảm giác lúc đó, tôi có cảm tưởng như có bàn tay ai đó đã nhấc tôi lên và đặt tôi xuống sàn nhà, sợi dây bị lỏng một bên; Chúa cho


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 41 tôi cơ hội thứ hai trong cuộc sống, một phép lạ”. Bắt đầu từ đó, anh trở lại làm việc như một người lương thiện trong một công ty. Công ty bị phá sản, anh quyết định tạo một công việc cho riêng mình, chăm chỉ làm việc và không còn sử dụng ma tuý nữa. Có một lần, do làm việc suốt đêm anh quá mệt, một đồng nghiệp đã đưa ma tuý cho anh với ý định giúp anh lấy lại sức. Nhưng anh từ chối và nói rằng mình vừa mới từ bỏ nó. Về nhà anh không thể ngủ được và anh đã gọi đồng nghiệp đưa chất gây nghiện đến. Thế là anh lại tiếp tục tiêu hao tiền bạc cho ma tuý, và trắng tay. Khoảng 6 tháng sau anh gặp một trùm ma tuý thuê anh lái xe cho gia đình ông. Trong một bữa tiệc của tổ chức tội ác này được cảnh sát bảo kê, họ đã cho anh ma tuý loại nặng. Lúc đầu anh từ chối, nhưng sau đó không thể cưỡng lại, anh đã dùng nó. Trong lúc phê ma tuý anh đã nghe trùm ma tuý nói “Tôi muốn anh hộ tống tôi”. Họ trao cho anh một khẩu súng và ra lệnh giết người. Bốc đồng, phê thuốc, anh đến nơi mà họ chỉ và đã xả súng giết chết nhiều người. Anh lún sâu vào tội ác. Thế nhưng, có một điều anh không hiểu được, trước mỗi lần thực hiện tội ác, anh luôn nhớ đến Chúa và thầm cầu nguyện “Lạy Chúa, xin bảo vệ con, đừng để ai chạm đến con”. Thực tế, nhiều lần anh đã gần kề cái chết. Một ngày kia, qua người mẹ, anh gặp một linh mục lớn tuổi. Linh mục nói ngài cần một người lái xe đưa ngài qua một bang khác. Anh đồng ý. Anh kể: “Trên đường đi, tôi không nói với linh mục một lời nào. Khi tới chủng viện lúc 5 giờ 30 sáng, tôi thấy nhiều người đang đợi linh mục. Tôi đi lên lầu ngủ và khoảng 12 giờ tôi xuống dưới xem tình hình thế nào. Tôi thấy linh mục đang chữa bệnh cho nhiều người. Mọi người cho tôi biết linh


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 42 mục này đã chữa bệnh cho rất nhiều người không chỉ bệnh thể xác nhưng trên tất cả là chữa lành linh hồn, mọi người xem linh mục như vị thánh vì nhờ lời cầu nguyện của cha mà nhiều người được chữa lành. Trong những ngày sau đó, tôi tiếp tục lái xe đưa linh mục đi các nơi. Một lần linh mục nói với tôi: ‘Tôi biết anh không còn cha, anh bị tổn thương rất nhiều, điều anh đang làm là do anh không có một người cha, không có tình thương của cha. Tôi muốn trở thành cha của anh’. Với những lời này tôi cảm thấy rất hạnh phúc. Thế nhưng, tôi vẫn chưa thoát khỏi bàn tay của trùm ma tuý. Một ngày, người cha thiêng liêng này cho người đến nói với tôi rằng ngài muốn tôi đến gặp ngài, ngài đang rất đau đớn, không thể làm gì được, ma quỷ đang quấy rầy ngài không để cho ngài yên. Khi tôi đến chủng viện, ngài đưa tôi đến nhà nguyện trước Thánh Thể và nói như xuất thần giống như Chúa nói với tôi: ‘Này con, cha yêu thương con, nhưng không muốn những gì con đang làm. Con đã làm ta bị thương tích quá nhiều, con đã làm cho các con của cha đau khổ. Sau đó tôi nghe ngài nói tiếp cũng một giọng nói không phải của ngài: ‘Cha thấy con là một người thuyết giáo giúp cho rất nhiều người trẻ, hãy đi cứu các linh hồn. Cha muốn con ra khỏi cuộc sống đó, một cuộc sống xấu xa, phục vụ satan, không phục vụ Thiên Chúa. Chúa vĩ đại hơn nhiều, Chúa có thể cho con tất cả những gì con cần.’ Nhưng tôi trả lời rằng tôi không muốn. Đột nhiên linh mục nói với tôi: ‘Cha đi đây, cha rất đau khổ. Đây là cuộc nói chuyện cuối cùng của chúng ta, sẽ không có thêm. Cha đã được kêu đi gặp Chúa, nhưng cha hứa với con một điều, mặc dù cha sẽ không chứng kiến được cuộc hoán cải của con, nhưng cha sẽ quỳ gối cầu nguyện cho đến khi nào con hoán cải”. Mấy tháng sau, người cha thiêng liêng qua đời. Anh đã cho gọi bác sĩ giỏi đến chăm sóc cho ngài nhưng không thể. Anh tức giận với Chúa vì tại sao Người cho anh một người cha giờ đây lại lấy đi. Anh tiếp tục lún sâu vào tội lỗi.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 43 Một thời gian sau, mẹ anh lại giới thiệu anh cho một linh mục khác, anh không muốn đi, nhưng do bà cố nài nỉ nên anh chấp nhận đến nhà thờ. Tại đây đang chuẩn bị giờ chầu Thánh Thể. Bà vào nhưng anh thì đứng ngoài cửa. Khi linh mục đưa Thánh Thể lên cao để ban phép lành, anh cảm thấy có một sức hút đến bên Thánh Thể. Anh đến đó và cảm thấy dường như mình bị lột trần. Anh gục xuống và đi về chỗ ngồi. Sau giờ chầu, linh mục đưa một tờ giấy mời mọi người đăng ký chầu Thánh Thể theo phiên một giờ. Tới lượt mình, anh không hiểu vì sao anh đã đánh dấu liên tiếp 7 giờ từ tối thứ Sáu đến sáng thứ Bảy. Tuần đó anh dành 22 giờ chầu Thánh Thể và không sử dụng ma tuý. Anh cảm thấy cần phải hoán cải, nhưng không đủ sức. Sau khi khẩn thiết cầu nguyện xin Chúa giúp anh báo với ông trùm ma tuý là anh sẽ không làm việc cho ông ta nữa. Ông ta trả lời là anh sẽ phải trả giá bằng mạng sống của những người thân. Anh càng khẩn thiết cầu nguyện xin Chúa che chở gia đình. Khi họ chuẩn bị ra tay đối với gia đình anh thì bị cảnh sát phát hiện. Anh nói giờ đây anh cảm thấy mình vừa thoát ra khỏi địa ngục. Từ đó, anh siêng năng tham gia vào các hoạt động của giáo xứ và trở thành người rao giảng Tin Mừng ở các nơi, đặc biệt trong các nhà tù. Anh mong ước đền bù tội lỗi bằng hoạt động dấn thân loan báo Tin Mừng đưa người tội lỗi như anh trở về với Chúa.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 44 Bà Ann Wittman giúp đỡ gia đình tị nạn Afghanistan như Chúa Giêsu Câu chuyện của bà Ann Wittman, người đã giúp đỡ các gia đình tị nạn đến từ Af- ghanistan. Bà cho biết, tất cả công việc giúp đỡ của bà dành cho các gia đình Afghanistan khó khăn đều bắt nguồn từ đức tin Công giáo và mệnh lệnh mà bà học được khi lớn lên, là phải đối xử với người nghèo như thể họ là chính Chúa Kitô. Ngọc Yến - Vatican News Vào thời điểm Taliban chiếm Kabul, Afghanistan vào cuối tháng 8/2021 và bắt đầu cầm quyền bằng sự đàn áp, hàng trăm nghìn người đàn ông, phụ nữ và trẻ em đã bỏ trốn khỏi đất nước, nhiều người tìm kiếm một cuộc sống mới ở Mỹ. Bà Ann Wittman, 47 tuổi, một bà mẹ nội trợ, cảm thấy rằng đã đến thời điểm thích hợp để bắt đầu làm công việc bác ái toàn thời gian. Khi những người Afghanistan kiệt sức và nghèo khổ bắt đầu đến quê hương của bà ở Saint Louis, Missouri, bà Wittman đã nhìn thấy cơ hội để đưa đức tin Công giáo của mình vào hành động bằng cách giúp những người mới đến. Gần một năm sau, bà Wittman cung cấp cho cộng đồng người Afghanistan theo những cách mà trước đây bà không thể tưởng tượng được. Vợ chồng bà mua nhà cho một gia đình người Afghanistan, và đối với các gia đình khác bà quyên góp để cho họ những vật dụng lớn như máy giặt, máy sấy, đồ nội thất và ô tô.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 45 Bà cho biết, tất cả công việc giúp đỡ của bà dành cho các gia đình Afghanistan khó khăn đều bắt nguồn từ đức tin Công giáo và mệnh lệnh mà bà học được khi lớn lên, là phải đối xử với người nghèo như thể họ là chính Chúa Kitô. Bà Wittman nói: “Khi chúng tôi giúp đỡ họ, chúng tôi đang làm điều Chúa Giêsu bảo chúng tôi phải làm”. Bà cho biết thêm, trong lúc giúp đỡ những người khốn khổ này bà cũng có cơ hội chia sẻ đức tin Công giáo của mình cho những người đa số là tín đồ Hồi giáo. Trái lại, từ nơi họ, bà cũng đã học được rất nhiều về tôn giáo và văn hóa. Bà chia sẻ rằng bà luôn có sự say mê phục vụ người khác và niềm đam mê đó bà có được nhờ nền giáo dục Công giáo. Qua giáo dục Công giáo bà học được tầm quan trọng của việc “đối xử với người khác như thể họ là Chúa Giêsu”. Tuy nhiên, bà cũng nói bà chưa bao giờ đảm nhận một “vai trò lãnh đạo đầy nhiệt huyết” như khi bà dành cho các gia đình Afghanistan. Hiện nay, mặc dù cuộc sống ngày càng khó khăn, nhưng nhu cầu cần được giúp đỡ của những người Afghanistan đến Saint Louis không thể giảm bớt. Cho đến nay, tại Missouri, ít nhất 600 người đã đến và 750 người khác dự kiến đến vào cuối năm nay, với nhiều người định cư trong khu vực tàu điện ngầm lớn nhất của khu vực. Thông qua tổ chức cộng đồng Welcome Neighbor STL, bà Wittman tình nguyện kết bạn với một gia đình Afghanistan mới đến để giúp họ về vật chất và quan trọng hơn là tình bạn. Vào tháng 11/2021, bà gặp gia đình Wardak có sáu con nhỏ chạy trốn từ Afghanistan. Các thành viên của gia đình này không nói được tiếng Anh và ban đầu được bố trí trong một căn hộ trống. Người cha, ông Farid đã làm việc với lực lượng Hoa Kỳ ở Afghanistan, yêu cầu đưa gia đình ông đến nơi an toàn sau khi Taliban tiếp quản.


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 46 Thấy nơi ở của gia đình này không thích hợp, bà Wittman đã giúp mua cho họ một ngôi nhà bằng tiền tiết kiệm. Ngoài ra bà cũng đã giúp cho gia đình này một chiếc xe hơi để ông Farid có thể đi làm vào mỗi buổi chiều và đến lớp học tiếng Anh hai lần một tuần. Ông Farid hy vọng vào một ngày nào đó khi có đủ điều kiện ông sẽ mua lại ngôi nhà từ bà Wittman, nhưng bà nói rằng họ không vội vàng. Nhờ có nhà ở ổn định, xe hơi và những thứ cần thiết khác mà bà Wittman đã cung cấp, cũng như sự chăm chỉ của ông Farid, hiện nay gia đình Afghanistan đang phát triển tốt. Sự giúp đỡ của bà Wittman là một sự bất ngờ cho gia đình Afghanistan này, nhưng bà không dừng lại ở đó. Một năm sau khi thủ đô Kabul thất thủ, bà Wittman đã giúp đỡ hơn 20 gia đình Afghanistan, không có ý định làm chậm lại. Bà Wittman giải thích thêm về việc làm bác ái của bà: Ở Mỹ, cơ quan tái định cư chỉ cung cấp cho những người tị nạn những điều cơ bản cần thiết để tồn tại. Bà nhận thấy điều mà các gia đình Afghanistan cần là những người bạn có thể giúp đỡ họ lâu dài. Nhưng bà cũng nhận thức sâu sắc rằng không thể mong đợi các tình nguyện viên quyên góp đủ tiền cho những loại mặt hàng có giá cao mà các gia đình cần có ở Mỹ, như máy giặt, máy sấy, ô tô, máy tính và Wifi - chưa kể đến những thứ khác các dịch vụ cần thiết nhưng tốn kém như tư vấn. Vì khả năng không thể giúp nhiều hơn, và muốn tính đến chuyện lâu dài, bà Wittman và người em họ là cô Delia Andrews đã thành lập một tổ chức phi lợi nhuận, Human Kind STL, nhằm gây quỹ cần thiết để tiếp tục hỗ trợ giúp đỡ các gia đình Afghanistan đến khu vực Saint Louis. Họ hy vọng rằng bằng cách quyên góp từ xa và rộng, họ sẽ có thể gây quỹ cho những vật dụng mà các gia đình Afghanistan cần để phát triển.


“Chúng ta phải chiến đấu mỗi ngày bởi vì chúng ta yêu mến Thiên Chúa và chúng ta yêu món quà đẹp nhất mà Chúa đã ban cho chúng ta, đó là sự sống.” - Ann Wittman -


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 49 Diễn viên Shia LaBeouf trở lại Công giáo Tin nam diễn viên Shia LaBeouf trở lại Công giáo khi đóng vai chính trong bộ phim Cha thánh Pio, do Hollywood đưa ra đã làm cho nhiều người ngạc nhiên. Nhưng những ai đã biết về cuộc đời của Cha thánh Pio năm dấu thì câu chuyện hoán cải không làm họ ngạc nhiên lắm, vì vị thánh người Ý này được biết đến là người đã đưa nhiều tâm hồn hoán cải trở lại với Chúa. Ngọc Yến - Vatican News Shia LaBeouf đóng phim khi mới lên 7 tuổi và trở nên nổi tiếng sau bộ phim Transformers ra mắt trong năm 2007. Sự nghiệp diễn xuất của anh từ đó được trải đầy hoa hồng. Nhưng rồi hào quang điện ảnh và tuổi trẻ bốc đồng đã làm tài tử này tuột dốc một cách nhanh chóng. LaBeouf cho biết khi bắt đầu chuẩn bị cho vai Cha Pio, nhà thần bí nổi tiếng có năm dấu thánh, anh đang sống trong bóng tối do một số vụ bê bối và cáo buộc cá nhân. Anh nói: “Tôi có một khẩu súng trên bàn. Tôi muốn thoát ra khỏi thế gian này. Tôi không muốn sống nữa khi tất cả những điều này xảy ra. Tôi xấu hổ như thể chưa bao giờ cảm thấy như vậy. Xấu hổ đến nỗi dường như làm cho tôi quên cả cách thở. Tôi không biết phải đi đâu”. Đối với LaBeouf, quyết định nhận vai Cha Pio về cơ bản là


chứng nhân đức tin THE WITNESS OF FAITH Vươn mình trong gió 50 vì sự nghiệp, chứ không phải vì đức tin. Tuy nhiên, nam diễn viên dường như đang tìm kiếm những hướng dẫn để giúp anh vượt qua những thử thách và khó khăn cá nhân. Mặc dù khi lớn lên, LaBeouf được ảnh hưởng bởi đức tin Do Thái của mẹ và đức tin Kitô giáo của cha, nhưng có những lúc trong đời tài tử này không tin vào Chúa. Tuy nhiên, dường như Chúa đã có kế hoạch cho LaBeouf bằng cách tạo cho sự nghiệp của anh một cú huých nhất định theo một hướng rất tích cực. Để thực hiện vai diễn này, LaBeouf đã tới tu viện của các tu sĩ Cappucchino để nghiên cứu và nhập vai. Khi sống với các tu sĩ và đi tới những nơi cha thánh đã sống và thi hành sứ vụ, cũng như sứ vụ hiện tại của các tu sĩ Cappucchino, đời sống đức tin của anh đã được biến đổi theo hướng tích cực. Trong một cuộc trò chuyện với Đức cha Barron, Giám mục phụ tá của Los Angeles, diễn viên 36 tuổi chia sẻ: “Sự tiếp xúc đã xảy ra. Con đã ở đó, con không còn nơi nào để đi. Đây là điểm dừng cuối cùng trên chuyến tàu theo mọi nghĩa vì không có nơi nào khác để đi”. Anh cũng chỉ ra điều thú vị là: “Bây giờ con biết rằng Chúa đang sử dụng cái tôi của con để đưa con đến với Người. Chúa thu hút con khỏi những ham muốn trần tục. Tất cả đều diễn ra cùng lúc. Nhưng không có động lực nào để con lái xe đến tu viện nếu không chỉ vì sự nghiệp của con”. Nam diễn viên cũng giải thích anh cảm thấy Chúa hơi “khôn” trong cách tiếp cận của Người để kéo anh đến gần Người hơn. Anh nói với Đức cha Barron: “Khi đến nơi, con cảm thấy có một sự thay đổi xảy ra, giống như ai đó đã đánh lừa con vậy, cảm giác như vậy, nhưng không phải theo một cách xấu. Theo một cách mà con không thể nhìn thấy và không


Get in touch

Social

© Copyright 2013 - 2024 MYDOKUMENT.COM - All rights reserved.